VẠN HẠNH TÂM GIAO THI TÁN (PHƯƠNG DANH THI ĐỀ) 5.2010
VẠN HẠNH TÂM GIAO THI TÁN
(PHƯƠNG DANH THI ĐỀ)
TRƯỚC CỔNG THIỀN VIỆN VẠN HẠNH
HT. THÍCH CHƠN NGUYÊN (HIỆN Ở THIỀN VIIỆN VẠN HẠNH - SÀI GÒN) VÀ HT. THÍCH NHƯ MINH (HIỆN Ở MỸ QUỐC)
TT. THÍCH VIÊN NHƯ (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA LINH SƠN, ĐÀ LẠT - LÂM ĐỒNG)
TT. THÍCH NHẬT TỪ (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA GIÁC NGỘ, Q.10, SÀI GÒN)
HT. THÍCH KHẾ CHƠN (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA THIÊN MINH - TP. HUẾ)
MỘT SỐ CỰU TĂNG SINH KHÓA IV HỌC VIỆN
(PHƯƠNG DANH THI ĐỀ)
TRƯỚC CỔNG THIỀN VIỆN VẠN HẠNH
萬 行 禪 院 奉 讚
黃 德 整 慧 奉 筆
祥 輝 法 種 自 初 源
雲 地 玄 開 弟 一 傳
淨 日 深 持 光 道 路
潔 圓 上 行 示 高 玄
萬 時 足 發 德 龍 象
行 滿 建 興 座 聖 賢
明 照 佛 光 常 普 利
珠 王 正 教 永 真 禪
順化故京庚寅年季秋(二拾拾日八月二千零百拾年)
Dịch âm:
VẠN HẠNH THIỀN VIỆN PHỤNG TÁN
Hoàng Đức Chỉnh Tuệ phụng bút
TƯỜNG
huy pháp chủng tự sơ nguyên
VÂN địa
huyền khai đệ nhất truyền
TỊNH nhật
thâm trì quang đạo lộ
KHIẾT
viên thượng hạnh thị cao huyền
VẠN thời
túc phát đức Long Tượng
HẠNH
mãn kiến hưng tọa Thánh Hiền
MINH
chiếu Phật quang thường phổ lợi
CHÂU
vương chánh giáo vĩnh chơn Thiền
Thuận Hóa Cố Kinh, Canh Dần niên Quý Thu (20.10.2010)
Dịch nghĩa:
VẠN HẠNH THIỀN VIỆN PHỤNG TÁN
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ phụng bút
Hạt giống pháp tốt
đẹp huy hoàng từ cổ xưa
Đất Tổ mở bày truyền
trao pháp tối thắng
Sự thanh tịnh được
giữ hằng ngày sáng lối đạo
Vườn hạnh tinh tuyền
rộng lớn hiện đài cao
Vạn thời tới nay
phát xuất bậc Long Tượng
Công hạnh tròn đầy
xây nên tòa Thánh Hiền
Sáng chói hào
quang Phật pháp thường phổ lợi
Ngọc châu quý nhất
là chánh giáo mãi pháp Thiền chân thật.
Thuận Hóa Cố Kinh, Canh Dần niên Quý
Thu (20.10.2010)
Dịch thơ:
VẠN HẠNH THIỀN VIỆN PHỤNG TÁN
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ phụng bút
TƯỜNG
huy giống pháp tự sơ nguyên
VÂN địa
mở bày đệ nhất truyền
TỊNH nhật
giữ gìn khai sáng đạo
KHIẾT
viên hạnh lớn hiện cao huyền
VẠN thời
phát xuất bậc Long Tượng
HẠNH
mãn hưng công ứng Thánh Hiền
MINH
chiếu Phật quang thường phổ lợi
CHÂU
vương chánh giáo vĩnh chơn Thiền
Thuận
Hóa Cố Kinh, năm Canh Dần cuối Thu (20.10.2010)HT. THÍCH CHƠN NGUYÊN (HIỆN Ở THIỀN VIIỆN VẠN HẠNH - SÀI GÒN) VÀ HT. THÍCH NHƯ MINH (HIỆN Ở MỸ QUỐC)
真 源 上 坐 詩 祝
黃德整慧(慧日默人)敬題
慧 印 點 春 長 遠 空
如 然 寒 月 現 容 通
真 人 賢 士 堅 來 世
源 性 玄 涼 行 普 同
萬行禪院庚寅年四月吉日(五月二千零百拾年)
CHƠN NGUYÊN THƯỢNG TỌA THI CHÚC
Hoàng Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) kính
đề
Dịch âm:
TUỆ ấn
điểm Xuân trường viễn không
NHƯ
nhiên hàn nguyệt hiện dung thông
CHÂN
nhân hiền sĩ kiên lai thế
NGUYÊN tánh
huyền lương hạnh phổ đồng
Vạn Hạnh
Thiền viện, Canh Dần niên, Tứ nguyệt, Cát nhật (5.2010)
Dịch nghĩa:
CHƠN NGUYÊN THƯỢNG TỌA THI CHÚC
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) kính đề
Ngọc ấn trí tuệ in
mùa Xuân miên viễn giữa thái không
Lòng chân thật hồn
nhiên là vầng trăng lạnh hiện khắp nơi
Bậc cao hiền kẻ sĩ
vẫn bền tâm giữa thăng trầm thế cuộc
Thể tính căn bản:
huyền diệu, tươi mát chính là vui vẻ hòa nhập
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày tốt
tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010)
Dịch thơ:
TUỆ NHƯ CHƠN NGUYÊN THƯỢNG TỌA THI CHÚC
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc
Nhân) kính đề
TUỆ hằng
Xuân điểm trường không
NHƯ
nhiên trăng hiện dung thông một vầng
CHÂN
nhân hiền sĩ phong trần
NGUYÊN
lương diệu tánh hòa phong thường hành
Thiền viện Vạn Hạnh,
ngày tốt tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010) TT. THÍCH VIÊN NHƯ (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA LINH SƠN, ĐÀ LẠT - LÂM ĐỒNG)
圓 如 上 坐 詩 祝
靈山寺住持(林同省佗喇城)
黃德整慧(慧日默人)敬題
心 玄 入 道 詩 琴 章
真 美 光 輝 廣 四 方
圓 體
通 融 恆
轉 輾
如 如
行 化 普 真 常
萬行禪院庚寅年孟夏吉日(五月二千零百拾年)
Dịch
âm:
VIÊN NHƯ THƯỢNG TỌA THI CHÚC
Linh Sơn Tự Trụ trì (Lâm Đồng tỉnh - Đà Lạt thành )
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
TÂM huyền nhập đạo thi cầm chương
CHƠN mỹ quang huy quảng tứ phương
VIÊN thể thông
dung hằng triển chuyển
NHƯ như hành hóa phổ chơn thường
Vạn
Hạnh Thiền viện, Canh Dần niên, Tứ nguyệt, Cát nhật (5.2010)
Dịch nghĩa:
THƠ CHÚC THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN NHƯ
Trụ trì Chùa Linh Sơn ( Đà Lạt –
Lâm Đồng)
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
Tấm lòng rộng mở lìa tục vào đạo
với một chương thơ nhạc
Vẻ đẹp chân thật đã lan xa rộng bốn
phương
Gốc rễ vốn
tròn đầy bao dung vẫn thường phát tiết
Tùy duyên
vui chơi giúp đỡ, đó là lẽ thường tình
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày tốt
tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010)
Dịch thơ:
THƠ CHÚC THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN NHƯ
Trụ trì Chùa Linh Sơn ( Đà Lạt – Lâm Đồng)
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
TÂM huyền vào đạo nhạc thơ chương
CHƠN mỹ lan xa khắp bốn phương
VIÊN thể
bao dung thường phát tiết
NHƯ như hành hóa rộng chơn thường
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày tốt
tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010)
TT. THÍCH NHẬT TỪ (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA GIÁC NGỘ, Q.10, SÀI GÒN)
日 慈
上 坐 詩 祝
黃德整慧(慧日默人)敬題
覺 路 威 儀 淨 法 空
悟 如 嚴 細 印 宗 風
日 光 遍 照 受 恩 德
慈 性 圓 通 廣 妙 常
萬行禪院庚寅年四月吉日(五月二千零百拾年)
Dịch âm:
NHẬT TỪ THƯỢNG TỌA THI CHÚC
Giác Ngộ Tự Trụ trì
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
GIÁC lộ uy nghi tịnh pháp không
NGỘ như nghiêm tế ấn tông phong
NHẬT quang biến chiếu thọ ân đức
TỪ tánh viên thông quảng diệu thường
Vạn Hạnh
Thiền viện, Canh Dần niên, Tứ nguyệt, Cát nhật (5.2010)
Dịch nghĩa:
THƠ CHÚC THƯỢNG TỌA THÍCH NHẬT TỪ
Trụ trì Chùa Giác Ngộ
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
Đường
tuệ giác uy nghi hiện pháp rỗng không (thênh thang)
Thấy
rõ lẽ chân thật trang nghiêm vi tế là ấn chỉ Tổ đức
Ánh
sáng rạng ngời chiếu khắp thừa hưởng ân đức (Phật, Tổ)
Lòng
yêu thương chân thật rộng rãi thông suốt tròn đầy đạo mầu tỏa khắp
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày tốt
tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010)
Dịch thơ:
THƠ CHÚC THƯỢNG TỌA THÍCH NHẬT TỪ
Trụ trì Chùa Giác Ngộ
Hoàng
Đức Chỉnh Tuệ (Tuệ Nhật Mặc Nhân) thi đề
GIÁC
lộ uy nghi hiện pháp không
NGỘ
như nghiêm tịnh ấn Tổ phong
NHẬT
quang chiếu khắp hưởng ân đức
TỪ
tánh viên thông rộng diệu thường
Thiền viện Vạn Hạnh, ngày tốt
tháng tư năm Canh Dần (20.5.2010)HT. THÍCH KHẾ CHƠN (HIỆN TRÚ TRÌ CHÙA THIÊN MINH - TP. HUẾ)
MỘT SỐ CỰU TĂNG SINH KHÓA IV HỌC VIỆN
PHỤ LỤC:
BÀI VIẾT CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN NHƯ
BÀI VIẾT CỦA THƯỢNG TỌA THÍCH VIÊN NHƯ
VỀ BẾN PHONG KIỀU THĂM TRƯƠNG KẾ
Ai đã từng đọc bài thơ Phong
Kiều Dạ Bạc của Trương Kế cũng rất dễ cảm nhận được cái không gian tịch
mịch, thơ mộng, êm đềm mà tiết tấu của bài thơ mang lại :
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên .
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
dạ bán,chung thanh đáo khách thuyền .
Tạm dịch
Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời,
Lửa chài, cây bến trước buồn ngơi.
Hàn San chùa cổ ngoài Cô phủ,
Khuya khoắt chuông vang vọng tới người.
Là một thi sĩ, tâm hồn nhạy cảm với nhân
thế, đất trời, Trương Kế đã dùng những con chữ ghi lại khoảnh khắc
thực tại mà ông đang sống, ông đã đóng khung được không gian và bắt thời
gian đứng lại trong bốn câu thơ, để mãi muôn sau, những ai đồng cảm với
ông khi chạm đến bài thơ này thì vẫn thấy không gian, thời gian ấy vẫn
như chưa từng thay đổi. Vẫn bến Phong Kiều mịt mờ sương phủ với hàng
phong đứng ngó trăng tàn, vẫn tiếng quạ kêu trong sớm tinh sương, vẫn
thấp thoáng xa xa ánh đèn chài thuở nọ, cũng vẫn là người lữ khách trên
con đò nhỏ, chợt tròng trành vì tiếng chuông khuya. Đó là cái tài của
nhà thơ. Nhưng cho dù thi nhân viết hay đến mấy chăng nữa, thì điều tiên
quyết vẫn là những gì nhà thơ mô tả phải phản ảnh thực tại một cách
trung thực. Trong bài thơ này ta thấy cái không gian mà nhà thơ ghi lại
hết sức chân thật.
Nằm trong thuyền nhìn ra, trên không,
phía xa kia con trăng đã từng thức với ông suốt đêm qua giờ đã đi ngủ,
gần hơn trên trời mù mịt, còn dưới đất, bên kia bờ sông tiếng quạ kêu
sương trong những hàng phong cùng ánh đèn chài thấp thoáng dưới sông,
xa ngoài là thành Cô Tô nơi có Hàn San danh tự. Trong cái khung cảnh êm
đềm, tịch mịch giữa đêm khuya ấy, một tiếng chuông ngân như níu lại thời
gian. Như vậy, những khoảng cách xa, gần, trên, dưới của không gian và
thời gian lúc ấy đều được nhà thơ ghi lại một cách thơ mộng nhưng hết
sức trung thực. Cũng chính vì vậy nó mới dễ dàng tạo ra sự rung cảm đối
với người thưởng thức thơ ông.
Trong không gian, thời gian ấy, đối
diện với đêm khuya là một tâm hồn chở nặng những ưu tư, có lẽ năm tháng
đã lên men làm say lòng thi sĩ, hay sự đời nghiệt ngã đã ray rứt ông
suốt đêm qua. Không biết nữa! có người nói ông buồn tại vì lửa chài,
cây bến, có người bảo bởi tiếng quạ kêu sương, cho dù tại gì chăng
nữa, thì thi nhân cũng đã thức suốt đêm rồi. Ông chẳng nói rằng đêm
qua tôi thức suốt, ông chỉ nói trăng đã lặn rồi sao mọi thứ vẫn cứ rõ
ràng trước mặt. Làm sao mà ngủ được khi đôi mắt còn nhận biết trăng tàn,
vẫn còn thấy đầy trời mù mịt sương giăng, còn trước mặt lửa chài, cây
bến, mắt đã thế mà tai lại còn nghe tiếng ồn ào của lũ quạ, ý ruổi rong
tới tận chùa Hàn San ngoài thành Cô Tô nơi vừa có tiếng chuông vọng giữa
đêm trường, những cánh cửa đi vào tâm hồn ông chưa từng khép lại đêm
qua, thì làm sao mà vùi vào giấc ngủ. Ông không nói nhưng lửa chài, cây
bến đã nói. Ông không than nhưng tiếng chuông chùa đã than hộ giùm ông.
Ôi ! ông thật tài tình khi nhốt cả biết bao ưu tư vao trong một vài con
chữ !
Tuy nhiên nói như thế vẫn còn chưa đủ,
cái tài của ông còn thể hiện trong cách mà ông che dấu nỗi niềm. Đọc bài
thơ ông, ai cũng nghĩ sao mà cảnh đêm êm đềm quá vậy, buồn như thế thì
làm sao mà ngủ, nhất là với ông, một thi nhân, dường như ai cũng xót xa
vì sao mà tâm hồn ông nhạy cảm đến thế. Có thể đêm ấy lòng ông rối bời
những ưu tư sầu muộn, nhưng không phải cái sầu muộn của lửa chài cây bến
mà phải là một nỗi ưu tư về một cái gì đó lớn lao hơn. Ta có thể khẳng
định được điều đó, bởi vì ông đã bắt đầu bài thơ của mình bằng ba ngữ
danh từ chứa đựng ba câu hoàn chỉnh trong một câu, ông đã dồn nén cảm
xúc của ông ở mức tối đa, nhưng cõi lòng ông vẫn còn đó. Ba động từ mà
ông dùng liên tiếp: lạc = lặn (nguyệt lạc) đề = kêu (ô đề) mãn = phủ
đầy (sương mãn thiên) đã lộ ra một tâm hồn sống động, có một cái gì đó
hết sức mạnh mẽ, dữ dội đã xảy ra trong ông đêm qua, nó mạnh mẽ đến nỗi
trời sắp sáng rồi mà chúng cứ như vẫn còn đứng trước mặt (đối) chẳng
muốn rời xa.
Ông đã chứng kiến thời gian tàn trước
mặt, (nguyệt lạc) để cho đời lại bắt đầu(ô đề)trong cõi mông lung(sương
mãn thiên).Vẫn còn ai đứng đó đợi trông,(giang phong) chờ một chút lửa
nồng hy vọng(ngư hoả). Ông nghĩ gần rồi lại nghĩ xa, (Cô Tô thành ngoại
Hàn San tự) nhưng thời gian bảo với ông rằng nó không bao giờ dừng
lại.(dạ bán, chung thanh) ông cô đơn trong đêm trường khắc khoải, cuộc
đời ông như một chiếc thuyền nan (đáo khách thuyền). Ong bắt đầu bài
thơ với sự suy tàn và kết thúc bằng tiếng chuông cảnh tỉnh, ông đã bắt
đầu bài thơ bằng ba tiếng trống, thì ông lại kết thúc bằng chừng ấy
tiếng chuông (ba động từ : bán, thanh, đáo). Tâm hồn ông như vó ngựa
giữa đêm trường, sao lại bảo ông buồn. Không ! phải có một cái gì hơn
thế, nhưng nó là gì thì chỉ ông biết mình ông.
Ông Trương Kế tài tình là thế! tinh tế
là thế! Chỉ với 28 con chữ, ông đã đem hết không gian, thời gian cùng
với nỗi niềm nhốt vào trong đó, ông đã dùng cái tỉnh của đêm khuya để
che dấu cái động của lòng mình, ông không dùng nghĩa thật của ngôn từ để
phơi trải tim gan, mà ông chỉ dùng giai điệu của nó để biểu lộ hồn mình
trên ấy. Hơn thế nữa, ông còn để lại đằng sau những ngôn từ một cánh
cửa dành cho những ai đồng cảm với với ông, vào một đêm khuya nào đó tự
tìm thấy ông trong thao thức của chính mình. Bài thơ ông viết đã hơn
1000 năm, mà bút pháp vô cùng hiện đại. Thế mới biết vì sao bài thơ này
là một kiệt tác của ông cũng như thời đại mà ông đã sống./.
Giải mã bài thơ “PHONG KIỀU DẠ BẠC” của Trương Kế
Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên.
Cô tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thinh đáo khách thuyền.
Tạm dịch :
Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời,
Lửa chài, cây bến trước buồn ngơi.
Hàn San chùa cổ ngoài Cô phủ,
Khuya khoắt chuông vang vọng tới người.
Đây là một tuyệt tác của nhà thơ Trương Kế và
cũng là một kiệt tác của thơ Đường.Từ khi ra đời cho tới nay, nó đã được các
nhà thơ cũng như những nhà nghiên cứu quan tâm bình giảng. Tựu trung ai
cũng đều công nhận đây là một kiệt tác. Tuy nhiên rất ít người bình giảng bài
thơ này một cách toàn diện, mà chủ yếu là tập trung vào việc chú thích các từ
ngữ, trong đó thường tập trung ở câu 2 và 4. Từ đó người ta thường nghĩ : Vì buồn
nên nhà thơ không ngủ được, vì không ngủ được nên nhà thơ mới có được bài thơ
tuyệt tác này để lại cho đời. Nghĩ như thế có lẽ do cụm từ “ĐỐI SẦU
MIÊN” trong câu 2. Chính vì vậy câu này đã có nhiều ý kiến
khác nhau. Còn vấn đề nghĩa của hai từ “DẠ BÁN” ở câu bốn đến
nay vẫn chưa giải quyết được.
- Vậy nghĩa của từ “sầu miên” như thế
nào? Có phải TK do buồn vì thấy cảnh trăng lăn, quạ kêu mà không ngủ được hay
vì một lý do nào khác?
- Có đúng là chuông chùa Hàn
San được đánh vào lúc nửa đêm không? Hay là đây là một ngữ bịnh(tỳ vết) của bài
thơ?
- Thông điệp mà TK muốn gởi đến người đọc
là gì?
Trước hết xin ghi lại đây cách dịch và hiểu
của một số dịch giả về bài bài thơ này :
Đêm neo thuyền ở bến Phong Kiều
Câu 1
Trăng lặn, quạ kêu,sương đầy trời,
Câu 2:
1- Nguyễn Quảng Tuân: “Khách nằm trong thuyền
ngó ra ngoài thấy hàng cây phong ở trên bờ sông và những ánh đèn
thuyền chài trước bến trong lòng sinh ra buồn bã nên cứ mơ màng không ngủ
được”.(1)
2- Nguyễn Khuê: “Hàng cây phong bên bờ sông
và ánh đèn thuyền chài đối cùng khách đang thao thức sầu”.(2)
3- Nguyễn Thị Bích Hải : “Cây phong bên
bờ sông, ngọn lửa đèn chài,(khách) ngủ với nỗi buồn”.(3)
4- Nguyễn Cảnh Phức: “Rặng cây phong
bên bờ sông và ngọn lửa trên thuyền chài đang đối diện với nhau mà ngủ một cách
buồn rầu”.(4)
Câu 3
Ở ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San
Câu 4
Trần Trọng Kim, Tản Đà dịch :
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.(5)
Ngô Tất Tố dịch :
Tiếng chuông đưa đến bên đò canh khuya.
Bùi Khánh Đản dịch :
Đêm muộn chuông ngân vẳng đến thuyền.
Trần Trọng San dịch :
Nửa đêm chuông vẳng đến thuyền ai.
Nguyễn Khuê dịch :
Thuyền khách đêm khuya vẳng tiếng chuông.
Còn rất nhiều người dịch bài thơ này, ở đây xin
nêu một vài người tiêu biểu.
Như vậy câu 2 đã có nhiều ý kiến khác nhau. Câu 4
tuy có nhiều cách dịch như thế, chủ yếu là dựa vào cảnh trong bài thơ chứ đến
nay chưa ai lý giải tại sao “DẠ BÁN” lại được dịch như vậy. Do
đó hai từ “DẠ BÁN” vẫn chưa giải quyết được.
Ngoài những ý kiến trên, còn có một số ý kiến
khác về các từ Giang phong, ngư hoả, sầu miên như sau:
Nguyễn Dậu trong bài “Đôi điều thâu
lượm quanh Hán tự” viết:(6)
“Nếu ai có dịp đi qua Cô Tô, hãy đến cầu
Phong ở phía tây thành có bến Cô Tô. Hai bờ sông có hai ngọn núi đối ảnh sơn, một
núi mang tên Giang Phong một núi mang tên Ngư Hoả. Vậy Giang Phong và Ngư
Hoả trong thơ không dính gì đến cây phong và lửa nhà chài cả”.
Còn trong quyển “ Hội đồ Thiên Gia thi”
(7) Chung Bá Kính có ý kiến khác như sau:
Nguyên văn:
“Giang Phong thị danh, Sầu Miên sơn danh, Ngư
Hỏa thuyền thượng hoả, Cô Tô thành tức Tô Châu thành, Hàn San tự hữu Phật danh
Hàn San, Nguyệt Lạc, Ô Đề dạ thâm chi thời dã. Tư thời sương lạc mãn thiên,
Giang Phong thị chi ngư hoả điểm điểm dữ Sầu Miên sơn tương đối nhi thành
ngoại tự chung dạ bán thanh văn vu khách thuyền chi thượng giang, trung dạ cảnh
cái như thử ”(*)
Tạm dịch:
“ Giang Phong tên chợ, Sầu miên tên
núi, Ngư hoả là ánh lửa trên thuyền chài, Cô Tô thành tức thành Tô Châu, Hàn
Sơn tự có Phật tên Hàn San, Nguyệt lạc, Ô đề nghĩa là đêm đã khuya. Vào
lúc ấy sương xuống đầy trời, những ánh đèn chài bên chợ Giang phong lấp lánh
cùng đối diện với núi Sầu miên mà (trong lúc ấy) tiếng chuông chùa ở ngoài
thành Cô Tô nửa đêm vọng tới khách thuyền trên sông, cảnh trong đêm là như vậy”.
Sau bài viết của ông Nguyễn Dậu, ông Mai
Quốc Liên đã viết rằng :
“Chẳng lẽ tất cả các học giả người Trung Hoa
đều dốt địa lý và quan liêu ngồi nhà chú sai, hiểu sai thơ đến như thế”(8).
Ông Lý Việt Dũng đã viết trong báo Văn
Nghệ như sau:
“GIANG PHONG” và “NGƯ
HOẢ” phải hiểu là “cây phong bên sông và ánh lửa của người
thuyền chài” vì “tuyệt nhiên chưa từng thấy sách nào chú đó là tên hai ngọn núi
cả”.(9)
Còn đối với cách chú giải của Chung Bá Kính
thì tôi thấy có nhiều điều không hợp lý có thể nêu ra sau đây:
- Tại sao chợ Giang Phong chỉ có đèn chài
không thôi, không lẽ chợ chẳng có đèn đóm gì hay sao?
- Có lẽ nào các thuyền chài lại đánh cá nơi
chợ? Còn nếu các thuyền chài buôn bán cá ở chợ thì nhất định ánh đèn của chợ sẽ
sáng gấp bội phần ánh đèn chài, do đó nhà thơ không thể thấy đèn chài, hơn nữa,
nếu chúng ta dựng lại hình ảnh như TK mô tả trong thơ thì thấy thật vô lý, bởi
vì sương đầy trời mà với chỉ vài ngọn đèn chài lấp lánh thì làm sao mà thấy ngọn
núi để mà tương đối cho được.
Như thế ta thấy những chú thích của ông Nguyễn
Dậu và Chung Bá Kính tuy mới nhưng thiếu tính thuyết phục. Vì vậy
tôi nghĩ rằng cách giải thích hai từ “GIANG
PHONG” và “NGƯ HOẢ”
như ông các Lý Việt Dũng và Mai Quốc Liên và sách
Đường thi tam bách thủ là phù hợp hơn.
Còn đối với từ “SẦU MIÊN”
thì chúng ta thấy rằng hầu hết những người dịch bài thơ này, Trung Hoa cũng
như Việt Nam, đều thống nhất “SẦU MIÊN”
là tâm trạng thao thức sầu muộn của tác giả, ngoại trừ Nguyễn Cảnh Phức.
I VỀ NGHĨA CỦA TỪ “SẦU MIÊN”
Để tìm hiểu từ “SẦU MIÊN”
có nghĩa như thế nào trước hết hãy phân tích cách dùng từ của tác giả trong bài
này như thế nào.
Theo tôi ta có thể viết lại cấu trúc bài thơ ấy
như sau:
1- Nguyệt lạc,
ô đề, sương mãn thiên,
giang phong, ngư hoả
đối sầu miên
C V C
V
C
V
.
CHỦ NGỮ
VỊ NGỮ
2- Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
dạ bán , chung thanh
đáo khách thuyền
.
C V
C
V .
.
.
CHỦ NGỮ
VỊ NGỮ
Nhìn vào câu 1 ta thấy Trương Kế đã sử dụng
các cụm từ “ nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên” kỳ thực là những câu hoàn chỉnh
(xem ở cuối bài) nhưng tác giả đã tỉnh lược lại thành những ngữ danh từ
tương đương với danh từ ghép “giang phong, ngư hoả” với chức năng chủ ngữ, ở vị
ngữ ta có động từ “ĐỐI” do đó ta có thể chắc
chắn rằng “SẦU MIÊN” là danh
từ ghép để cân xứng với các ngữ danh từ và danh từ ghép ở chủ ngữ. Như vậy giờ
đây ta hãy xem danh từ ghép “SẦU MIÊN” nghĩa
như thế nào?.
Như ta biết Trương Kế sau gần cả đêm thức trắng,
về mặt sinh lý thì dĩ nhiên cơ thể muốn ngủ, nhưng do suy nghĩ quá nhiều về một
vấn đề gì đó nên không thể ngủ được, để nói lên tâm trạng này Trương Kế diễn tả
qua các hình ảnh, âm thanh mà ông cảm nhận lúc đó. Ta thấy trong tám đối tượng
(5 ở hai câu trên (Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời, lửa chài, cây bến) và 3 ở
hai câu cuối (thành Cô Tô, chùa Hàn San, tiếng chuông) mà Trương Kế nêu
ra thì hết bốn thuộc về sự cảm nhận của mắt (thị giác), hai thuộc về cảm nhận của
tai (thính giác) và hai thuộc về cảm nhận của tư duy (tri giác). Dựa vào
cấu trúc trên ta có thể hình dung ra được một người nằm trong thuyền, cơ thể
thì thúc giục cơn buồn ngủ mà tinh thần thì vẫn còn tỉnh táo, vẫn cảm nhận được
mọi thứ trước mặt, chung quanh bên ngoài (ĐỐI).
như vậy ta có thể nói rằng không chỉ có giang phong, ngư hoả đối sầu
miên mà cả nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên và
cả tiếng chuông cũng đối sầu
miên, bởi vì tất cả những thứ đó đều xảy ra trong
cùng một thời điểm, cùng tác động lên tâm hồn tác giả. Như cấu trúc 1 và 2 cho
thấy sầu miên là trạng thái của khách thuyền.
Chính vì vậy nghĩa của từ “SẦU MIÊN”
không những chỉ được khẳng định bởi Câu 1 và câu 2 mà cả câu 3 và 4
nữa.
Như đã phân tích trên, từ “SẦU
MIÊN” là một danh từ ghép, trường hợp này là từ ghép
chính phụ, trong đó từ “SẦU” bổ nghĩa cho từ “MIÊN” và
có nghĩa là “THAO THỨC” hay “TRẰN
TRỌC”.
Như vậy ta có thể nói rằng nguyên nhân khiến cho
Trương Kế không ngủ được chính là “sầu muộn, lo âu” sở dĩ ta biết được điều đó
là dựa vào từ “sầu”, căn cứ vào những cảm quan mà bài thơ mang lại. Nhưng
cũng có người cho rằng nếu lấy từ “sầu” trong “sầu miên” để cho ta nghĩa “ buồn”
thì còn lại từ “miên” làm sao dịch là “thao thức” thậm chí họ nêu câu hỏi rằng “hay
có tự điển nào định nghĩa “MIÊN” có nghĩa là
thao thức” (11). Tuy nhiên trong văn chương không phải khi nào chúng ta
cũng hiểu một cách cứng nhắc như vậy; bởi vì nếu ta cứ phân tích và hiểu theo
cách đó thì những câu như: “ Đau xé lòng anh chết nửa con người” hay “người
đi một nửa hồn tôi mất, một nửa hồn kia bỗng dại khờ” về mặt y học
thì không thể chấp nhận được, nhưng trong văn học thì thật tuyệt vời.
“Văn dĩ tải đạo”, “Ý tại ngôn ngoại” là vậy. Do đó Trương Kế dùng từ
“ sầu” ở đây là cố ý .
II - CÓ PHẢI TRƯƠNG KẾ BUỒN, KHÔNG NGỦ
ĐƯỢC VÌ THẤY CẢNH TRĂNG LĂN QUẠ KÊU...........KHÔNG?
Như đã đề cập ở trên Trương Kế không ngủ được
là vì buồn rầu, lo âu, nhưng ông buồn rầu, lo âu điều gì? Từ trước đến nay hầu
như ai cũng nghĩ là Trương Kế thao thức không ngủ được vì buồn, hay do buồn vì
thấy cảnh trăng lặn, quạ kêu …… lửa chài, cây bến, mà không ngủ được như Đường
Thi Tam Bách Thủ (ĐTTBT) độc bản của Sổ nghiêu tuyển tập (10) đã giảng:
Nguyên văn:
“Ngã kim tại giá Phong Kiều hạ đình thuyền trụ
túc, chỉ kiến nguyệt lượng lạc hạ khứ đích thời hầu, ô nha tại thụ thượng đề
khiếu, mãn thiên giáng trước nùng sương, giang biên đích phong thụ hoà ngư thuyền
thựơng đích đăng quang, chính đối trước ngã giá cá ưu sầu bất đắc thành miên
đích nhân”
Tạm dịch :
“ Đêm nay tôi neo thuyền tại bến Phong
kiều, thấy ánh trăng càng lúc càng xa mờ đi, trên cây đàn quạ kêu , đầy trời
sương giăng mù mịt, những cây phong bên sông cùng ánh đèn chài lấp lánh
trước mặt, làm cho tôi ưu sầu không sao ngủ được “.
Có lẽ vì sách ĐTTBT giảng như thế nên ở
Việt Nam,
chúng ta cũng nghĩ như thế chăng? Thật ra Trương Kế đã thức suốt đêm rồi, những
gì được tả trong thơ thuộc về cuối đêm, nên đâu phải vì thấy khung cảnh
như thế sinh buồn không ngủ được. Hơn nữa nếu hiểu như vậy thì đơn thuần bài
thơ chỉ là một bài tả cảnh, vậy đâu là thông điệp của bài thơ, chắc chắn ai
cũng biết rằng thông điệp mà TK muốn gởi đến người đọc nằm đằng sau những gì
ông mô tả trong bài thơ. Thông điệp ấy như thế nào tôi sẽ đề cập tới trong phần
sau, nhưng có một điều ta hiểu được là ông rất lo âu, và vì lo âu nên
không ngủ được. Ở đây tôi dùng từ “lo âu” bởi vì cái làm cho ông thao thức ấy phải
lớn hơn nỗi buồn, cách ông dùng từ trong thơ cho ta nghĩ như vậy. Nhìn vào cách
TK xử dụng biện pháp sáng tác( ba câu dồn lại một cho thấy sự dồn nến trong tâm
hồn ông) và từ loại trong bài thơ chúng ta thấy với một bài thơ 28 chữ mà ông
đã dùng tới 7 động từ, (Lạc, đề, mãn, đối, bán, thanh, đáo) với 3 động
từ trong câu mở đầu và 3 động từ trong câu kết thúc, còn lại là danh từ, chỉ
duy nhất 1 phó từ (ngoại) và1 tĩnh từ (sầu), mà từ sầu
này chỉ bổ nghĩa cho từ miên (ngủ). Do đó tôi nghĩ rằng chắc chắn có một
điều gì đó hết sức mạnh mẽ tác động lên tâm hồn Trương Kế làm cho ông không ngủ
được. Ở đây ta cũng thấy Trương Kế đã xử dụng từ “sầu” hết sức khéo léo. Mặc dầu
từ ghép “sầu miên” có nghĩa là “thao thức”, nhưng nó cũng gợi cho người đọc hiểu
rằng lòng ông lo âu sầu muộn biết bao trong đêm ấy tại bến Phong Kiều. Ta có thể
hiểu rằng đây chính là cách mà TK vừa bày tỏ lòng mình nhưng lại vừa dấu ý định
của mình. Bởi vì vào thời Trương Kế không ít thi nhân đã gặp tai hoạ vì chữ
nghĩa. Do đó khi ông viết “sầu miên” thì có thể giải thích được khi bị chất vấn.
Đến đây tôi xin tạm dịch hai câu thơ
trên như sau:
“Trăng đã lặn, quạ kêu, trời đầy sương,
Hàng cây phong bên sông cùng ánh lửa chài
đang ở trước cơn buồn ngủ”.
Dịch thơ :
"Trăng lặn, quạ kêu, sương kín trời.
Lửa chài, cây bến trước con ngươi”
III - CÓ PHẢI CHUÔNG CHÙA
HÀN SAN ĐÁNH VÀO LÚC NỬA ĐÊM ?
Đây là một vấn đề mà đã làm tổn hao rất nhiều
công sức và giấy mực của những nhà nghiên cứu, người thì bảo tại vì nhà thơ mơ
màng nên cứ ngỡ là nửa đêm, chứ thực ra lúc ấy chẳng phải nửa đêm, như
trong quyển Đường thi hợp giải bát bách thủ của Hà Trừng Bình
đã viết:
Nguyên văn:
“Thử thời thực bất thị dạ bán. Trương kế sầu
miên thời, tâm thần hoảng hốt nghi kỳ thị bán dạ dã”.
Tạm dịch:
“Lúc bấy giờ thực chẳng phải là nửa đêm,
Trương Kế đang lúc chập chờn, tinh thần hoảng hốt, ngỡ là nửa đêm vậy”.
Nhưng cũng có người cho rằng: quả thật chuông
chùa Hàn San đánh vào lúc nửa đêm như đã được chú trong quyển Đường thi tam
bách thủ hân thưởng của Lưu Đại Trừng: (12)
Nguyên văn:
“Âu Dương Tu viết: Thi nhân tham cầu hảo cú
nhi lý hữu bất thông giả, diệc ngữ bịnh dã. Đường nhân hữu vân: Cô Tô đài hạ
Hàn San tự, dạ bán chung thanh đáo khách thuyền. Thuyết giả diệc vân: Cú tắc
giai hỷ, kỳ như tam canh bất thị đả chung thời. Diệp Thiếu Uẩn Thạch Lâm thi
thoại: Cái công vị thường chí Ngô trung, kim Ngô trung tự thực bán dạ đả
chung”.
Tạm dịch:
“Âu Dương Tu nói: Nhà thơ vì tham cầu đặt câu
cho hay nên lý không được thông, đó là một ngữ bịnh. Người đời Đường có nói rằng:
Chùa Hàn San dưới đài Cô Tô, nửa đêm tiếng chuông vang tới tận khách trên thuyền.
Họ cũng nói rằng: Câu thơ rất đẹp, duy chỉ có canh ba đâu phải lúc đánh
chuông. Sách Thạch Lâm thi thoại của Diệp Thiếu Uẩn có nói: Vì ông chưa đến huyện
Ngô, hiện nay chùa ở đó nửa đêm có đánh chuông thật”.
Lại có người không quan tâm đến chuyện chuông
chùa Hàn San đánh vào lúc nào, và xem việc tìm hiểu có hay không tiếng chuông nửa
đêm là chuyện bới lông tìm vết, như trong quyển Đường thi tam bách thủ độc
bản của Sổ Nghiêu viết:
Nguyên văn:
“ Hậu nhân dĩ vi dạ bán vô chung thanh tương
cấu bệnh, vị miễn xuy mao cầu tì”.
Tạm dịch:
“Người đời sau cho rằng nửa đêm không có tiếng
chuông và cho đó là một ngữ bịnh. Xin miễn bới lông tìm vết”.
Trên đây là những ý kiến của những thức giả Trung
Hoa. Ở Việt Nam thì hầu như đa số những người nghiên cứu đều biết việc đánh
chuông vào lúc nửa đêm là không phù hợp với khung cảnh được tả trong bài thơ,
nhưng vì chưa lý giải được tại sao lại dùng từ “dạ bán” trong
hoàn cảnh như vậy, nên chấp nhận rằng tiếng chuông chùa Hàn San đánh vào lúc nửa
đêm và chẳng có bình luận gì mới. Theo tôi nghĩ, có thể bởi vì trước đây đa số
những ngưòi quan tâm đến bài thơ này đều trông đợi sự chú thích của các thức giả
Trung Hoa, mà như ta biết hầu như ai cũng chấp nhận hoặc đó là lúc nửa
đêm, hoặc đây là một tỳ vết của bài thơ.
Không thỏa mãn với những gì đã nêu trên, ở
đây tôi muốn tìm hiểu về nghĩa của từ “DẠ BÁN” trong bài thơ này, xem thử
có thực “DẠ BÁN” có nghĩa là “NỬA ĐÊM” không?
Để tìm hiểu vấn đề nầy, tôi xin ghi lại cách
Trương Kế diễn tả cảnh trong đêm đó qua các hình ảnh, âm thanh mà ông đã ghi lại
trong bài thơ.
Trăng đã lặn, quạ kêu, trời đầy sương,
Hàng cây phong bên sông cùng ánh lửa chài
đang ở trước cơn buồn ngủ.
Ngoài thành Cô Tô có chùa Hàn San,
Đêm đã qua hơn một nửa (canh khuya), tiếng
chuông vọng tới khách trên thuyền.
Ở đây tôi dịch “DẠ BÁN” là đêm
đã qua hơn một nửa là vì:
Trương Kế là người Trung Hoa, chắc chắn ông biết
rằng nửa đêm trong tiếng Hán là “BÁN DẠ”
cũng như: BÁN NHỰT (nửa ngày), BÁN NGUYỆT (nửa
tháng), BÁN NIÊN(nửa năm). Trong một số trường
hợp nào đó, có thể đảo ngữ để cho hợp vận hay niêm luật. Tuy nhiên trong văn cảnh
này thì việc sử dụng “BÁN DẠ”
cũng không sái niêm luật. Vậy tại sao ông không viết “BÁN
DẠ” mà lại viết “DẠ BÁN”
ngay cả các thức giả Trung Hoa cũng viết “BÁN DẠ”
là nửa đêm như:
“Thử thời thực bất thị DẠ BÁN
(chữ của TK). Trương Kế sầu miên thời, tâm thần hoảng hốt nghi kỳ thị BÁN
DẠ (chữ của người chú) dã” (xem phần dịch ở trước).
Hay trong Đường thi tam bách thủ độc bản
của Sổ Nghiêu viết:
Nguyên văn:
“Thử thi đại ý tự lữ khách dạ túc chu trung
đích tình cảnh. Thử thi thời gian hoàn toàn ý tại BÁN DẠ(chữ
của người chú). Sở dĩ thủ cú tức thuyết NGUYỆT LẠC
dữ mạt cú DẠ BÁN (chữ của TK) tương hô ứng, tịnh
dĩ Ô ĐỀ dữ CHUNG
THANH tương hô ứng .”
Tạm dịch:
“Bài thơ này đại ý tả tình cảnh của người lữ
khách qua đêm trong thuyền. Thời gian trong bài thơ này hoàn toàn chỉ về nửa
đêm (BÁN DẠ). Sở dĩ câu đầu nói NGUYỆT
LẠC và câu cuối DẠ BÁN
là để cùng hô, cùng ứng với nhau, rồi thì Ô ĐỀ
và CHUNG THANH cũng cùng hô, cùng ứng”.
Hay trong Đường thi tam bách thủ hân thưởng của
Lưu Đại Trừng đã viết :
“Cái công vị thường chí Ngô trung, kim Ngô
trung tự thực BÁN DẠ đả chung”.(xem phần dịch ở
trước)
Như vậy rõ ràng Trương Kế đã dùng từ “DẠ
BÁN ” có chủ ý. Nhưng “DẠ BÁN với
nghĩa nào và tại sao?
Chúng ta hãy trở lại cấu trúc bài thơ này.
Ngay từ đầu tác giả đã viết:
Cấu trúc ngữ danh từ
: NGUYỆT LẠC
trăng rụng hay trăng lặn.
C V
Cấu trúc đủ
(câu)
NGUYỆT DĨ LẠC trăng đã lặn.
C
V
Các ngữ danh từ “Ô đề, sương mãn thiên, dạ
bán, chung thanh” cũng tương tự như ngữ danh từ “nguyệt lạc”
Do dùng câu làm ngữ danh từ nên Trương Kế đã tỉnh
lược tối đa thành phần của câu, vì vậy người đọc cần phải hiểu theo đúng nghĩa
mà cấu trúc thật mang lại. Trong trường hợp này thì “NGUYỆT
LẠC”, “trăng lặn”, phải được hiểu là: “NGUYỆT
DĨ LẠC”, “trăng đã lặn”, chứ không thể nghĩ rằng “trăng
đang lặn được”, mà trăng đã lặn thì làm sao mà vào nửa đêm được, hơn nữa lại
có tiếng quạ kêu (*), quạ là một loài chim không sinh hoạt ban đêm, điều này
cho thấy tiếng kêu của lũ quạ báo cho thấy rằng đêm sắp hết, bình minh đang đến
rất gần, và cũng chính vì vậy hơi ấm của mặt trời đã vươn tới nơi dòng sông khiến
cho hơi nước xông lên thành sương mù dày đặt, trong khung cảnh như thế, lại có
tiếng chuông chùa từ xa vang đến. Trương Kế sau gần một đêm không ngủ,
tinh thần mỏi mệt, nhưng nhà thơ biết chắc thời gian đang ở khoảng nào,
nhất định là không phải vào lúc nửa đêm – canh ba –. Bởi vì nếu muốn nói như thế,
nhà thơ đã viết “BÁN DẠ” rồi. Vì vậy chúng ta
hãy xem lại cấu trúc của ngữ danh từ “DẠ BÁN”.
Cấu trúc ngữ danh từ : DẠ
BÁN
C
V
Bao gồm hai cấu trúc đủ (câu):
Một là
“DA
DĨ BÁN” “đêm đã qua một nửa”
C V
Hai là “DA DĨ QUÁ BÁN”
“đêm đã qua hơn một nửa”.
C
V
Nếu nhìn vào toàn bộ cách dùng từ của Trương Kế
trong bài thơ thì ta sẽ thấy cấu trúc hai là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì nếu chấp
nhận cấu trúc một thì tác giả là một nhà vật lý hay toán học chứ không phải
là nhà thơ, trong thơ không thể có cách nói đo đạc thời gian một cách chính xác
như vậy, đồng thời nhà thơ chẳng có lý do gì mà ngồi canh thời gian như vậy,
hơn nữa nếu chỉ thức tới canh ba thì có gì đáng nói, mà nếu như vậy thì ông đã
dùng danh từ ghép “bán dạ”. Ở đây tác giả dùng từ “dạ
bán” là vì ông rút ngắn câu “ dạ dĩ quá bán” cũng như “
nguyệt lạc” từ câu “nguyệt dĩ lạc”. Như vậy “dạ
bán” ở đây có nghĩa là “dạ dĩ quá bán”.
Cái hay của nhà thơ là ông đã không nói thời điểm cụ thể, mà ông đã
để tiếng chuông rơi vào nửa sau của đêm, một khoảng cách rất rộng, mà ta có thể
gọi trong tiếng Việt là “canh khuya”, còn người
đọc tự mình cảm nhận thời điểm tiếng chuông vang tới bằng cách hình dung toàn bộ
hình ảnh và âm thanh mà ông đã mô tả trong bài thơ.
Chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng cảm nhận
điều này, như phần trích dẫn ở trên, “nguyệt lạc”
hô ứng với “dạ bán”, “ô đề”
thì hô ứng với “chung thanh”, như thế ta có trăng đã
lặn hô ứng với đêm đã khuya, quạ
kêu hô ứng chuông vang.Thêm vào đó, cách nhà thơ dùng
từ “dạ bán”, cho thấy nhà thơ hoàn toàn nhận
thức được ông đã chờ đợi giấc ngủ suốt đêm qua, hình ảnh này cho ta thấy việc
TK không ngủ được là do có một lo âu nào đó rất mạnh mẽ trong lòng chứ không
đơn giản là vì buồn.
Ta có thể viết lại bài thơ ấy dưới hình thức văn
xuôi như sau :
“Ngã kim tại Phong Kiều bạc, chỉnh dạ tâm tại
thiên sầu vạn trứ bất đắc thành miên
Hốt kiến nguyệt dĩ lạc = Nguyệt
lạc,
Thụ thượng ô nha đề khiếu = Ô
đề,
không trung sương giáng mãn thiên = Sương
mãn thiên.
giang biên chi phong thụ = Giang
phong,
dữ ngư thuyền chi hỏa quang = Ngư hỏa,
chính đối trước ngã,= đối (ngã = sầu
miên).
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự (tăng nhân đả
chung), = Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
thử thời dạ dĩ quá bán, = dạ bán
chung thanh đáo ngã thuyền.= Chung thanh
đáo khách thuyền
Có một một giai thoại để giải thích cho việc
đánh chuông vào lúc “DẠ BÁN”
này.
Tương truyền rằng Trương Kế một đêm neo
thuyền ở bến Phong Kiều, rung cảm trước cảnh đẹp của thiên nhiên
ông đã cảm tác được hai câu thơ:
“ Nguyệt lạc, ô đề, sương mãn thiên,
Giang phong, ngư hoả đối sầu miên”,
Thế rồi ông không sao kết thúc được bài thơ, nên
cứ thao thức mãi. Cùng trong đêm ấy, sư cụ chùa Hàn San cũng thấy cảnh trăng đầu
tháng mông lung, huyền ảo nên cảm tác được hai câu thơ:
Sơ tam, sơ tứ nguyệt mông lung
Bán tợ ngân câu, bán tợ cung
(Mồng ba, mồng bốn nguyệt mông lung
Nửa tợ móc câu, nửa tợ cung)
Rồi cũng như Trương Kế, sư cụ cũng không sao kết
thúc được bài thơ của mình, cứ thao thức mãi. Thời gian trôi đi, cho đến lúc
chú tiểu trong chùa dậy đánh chuông, (đây là nhiệm vụ của người tập sự) đi ngang
phòng thầy, thấy thầy còn thức, hỏi ra mới biết bèn mạo muội xin thêm vào hai
câu nữa để hoàn chỉnh bài thơ. Sư cụ đồng ý, chú tiểu liền đọc:
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
Bán trầm thuỷ để bán phù không”
(Một mảnh trăng chia thành lưỡng đoạn
Nửa chìm đáy nước, nửa trên không)
Như một nửa còn lại của một viên ngọc, hai câu
thơ của chú tiểu ý tứ liền lạc với hai câu của sư cụ, tạo thành một bài thơ
hoàn hảo. Sư cụ như trút được gánh nặng, còn chú tiểu cũng vô cùng sung sướng,
vì thực ra đêm qua chú cũng lâm vào tình trạng như thầy mình. Hai thầy
trò như đã hoàn thành một việc lớn, với tâm hoan hỉ, phấn chấn, chú tiểu đi
đánh chuông. Tiếng chuông mạnh mẽ, ngân vang, như cơn gió mở toang tâm hồn của
Trương Kế còn đang trằn trọc dưới bến Phong Kiều, tứ thơ của ông tức thì tuôn
trào thành hai câu:
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Thế là Trương Kế cũng hoàn thành bài thơ của
mình.
Trong Phật Giáo không thấy có sách nào nói về việc
đánh chuông vào lúc nửa đêm hay bất thường, ngoại trừ khi nhà chùa có sự cố
như: Vị Trú Trì chết, hoả hoạn, hay bị nạn, trong trường hợp như thế, tiếng
chuông là một thông tin có giá trị như một thông báo, kêu gọi sự giúp đỡ. Đánh
chuông vào canh năm là một truyền thống từ ngàn xưa của Phật giáo Trung Hoa
cũng như Việt Nam,
điều này ai cũng rõ. Nhưng vì đây là một giai thoại dùng để giải thích
cho việc Trương Kế dùng từ “DẠ BÁN” với
nghĩa “NỬA ĐÊM”, chính vì vậy đôi khi người viết
phải sửa lại câu chuyện cho thích hợp với mục đích của mình, như có người
đã viết:(13)
“ Chú tiểu hầu bên thấy vậy mới hỏi Sư cụ sao
đêm nay cứ trằn trọc mãi không ngủ. . . .
Sư cụ nghe xong khen hay và bảo chú tiểu lên
chánh điện đánh chuông tạ ơn Phật”.
Đây là một giai thoại nhằm phục vụ cho việc giải
thích hai từ “dạ bán” trong bài thơ của Trương Kế, do đó những
tình tiết của câu chuyện cũng phải làm sao cho hợp lý, vì vậy trong câu chuyện
nói trên có nhiều điều hơi gượng ép. Một là sao mà nhà chùa hành hạ chú tiểu đến
vậy, (đứng hầu thầy đến nửa đêm), may mà chú thêm vào hai câu, chứ nếu không e
hầu cả đêm. Hai là kiểu ăn mừng của thầy trò chùa Hàn San quá ư bất thường. Ba
là chuông ở chánh điện là chuông gia trì, âm thanh chỉ đủ vang trong phạm vi
chánh điện mà thôi, làm sao vang tới khách đang ở trên thuyền ngoài bến Phong
Kiều cho nỗi, vì chùa Hàn San ở ngoài thành Cô Tô, cách xa chỗ neo thuyền của
Trương Kế . Như vậy tiếng chuông mà Trương Kế nghe phải là tiếng Đại hồng
Chung, mà Đại Hồng Chung chỉ đánh vào lúc canh năm mà thôi. Cho dù đây là một
giai thoại, nhưng nó cũng cho thấy rằng người xưa đã nghĩ “DẠ
BÁN” không phải là “BÁN DẠ”.
Với tất cả những gì đã nêu trên, tôi cho rằng hai
từ “DẠ BÁN” trong trường
hợp này có nghĩa là “ĐÊM ĐÃ QUÁ NỬA”,
“ĐÊM ĐÃ KHUYA” hay “CANH
KHUYA”. Rõ ràng Trương Kế đã xử dụng từ “DẠ
BÁN” có chủ ý, chính xác và rất đắt.
- THÔNG ĐIỆP MÀ TK MUỐN GỞI ĐẾN NGƯỜI ĐỌC
LÀ GÌ?
Như đã trình bày trên, rỏ ràng TK viết bài thơ
này với những tính toán nhất định, vì sao tôi cho như vậy. Bởi vì, như ta biết
TK là một người tài, chỉ với bài thơ PKDB này thôi mà ông đã nổi tiếng như thế,
thì đủ biết chắc ông phải có nhiều bài thơ hay khác nữa. Nhưng ngày nay ta chỉ
biết TK qua bài PKDB này thôi. Tự việc này đã nói lên rằng TK viết bài này là
có dụng ý, và dĩ nhiên là ông hết sức hài lòng. Sự việc ngày nay TK chỉ còn một
bài thơ PKDB chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà có. Ta có thể hình dung ra ngày
ấy (thời TK) khi các nhà tập chú thơ muốn ghi lại (mỗi người mỗi bài) có thể họ
đã hỏi TK. “Ông thích bài nào nhất?” và TK đáp “Phong Kiều Dạ Bạc” chính vì vậy
mà trải qua hàng ngàn năm, với những tranh cãi về chữ nghĩa như thế mà bài thơ
vẫn tồn tại, trong khi đó bao nhiêu thơ văn của ông chẳng còn gì.
Khi đã nghĩ như vậy thì câu hỏi đặt ra là “Vậy TK
viết bài thơ PKDB với mục đích gì?”. để trả lời cho câu hỏi này chúng ta hãy
xem lại phương pháp sáng tác bài thơ (như đã trình bày trên). Tôi cho rằng TK
là người rất thông thạo về vùng đất này và đã nhiều lần ngủ thuyền ở bến Phong
Kiều. Tuy nhiên căn cứ vào những gì đã ghi lại trong bài thơ cho ta hiểu, có thể
TK viết bài PKDB tại bến Phong Kiều, mà cũng có thể TK viết bài thơ này tại một
nơi khác. Nhưng dù ông sáng tác bài thơ này ở đâu chăng nữa, thì việc sáng tác
bài thơ này xuất phát từ những tính toán chứ không phải từ những cảm xúc nhất
thời. Theo tôi lý do mà ông sử dụng những hình ảnh của bến Phong Kiều là tại
hai chữ “Cô Tô” hay nói khác hơn là ý nghĩa mà điển tích
“Cô Tô” mang lại (14). Đây chính là từ đinh của bài
thơ, chính vì vậy từ “Cô Tô” này nằm ở trung tâm của bài
thơ. Bởi vì thành Cô Tô và chùa Hàn San cách bến Phong Kiều gần chục cây số
thì làm sao nằm ở bến Phong Kiều mà nghe tiếng chuông chùa Hàn San cho được,
ngàn năm trước mười cây số là một khoảng cách rất lớn, và chắc chắn chủ yếu là
rừng, rõ ràng TK đã sắp đặt các yếu tố này một cách có chủ ý, mà như tôi đã nói
là tại vì TK muốn sử dụng địa danh “Cô Tô”để gởi gắm tâm tư của
mình chính như đã nói ở trên. Thêm vào đó lại có chùa Hàn San, nơi đêm đêm tiếng
chuông vang vọng nhắc nhở con người rằng cuộc đời vô thường lắm, thông điệp vô
thường ấy đã vang tới tận bến Phong Kiều nơi có một con người đang chơi vơi giữa
thực hư của nhiên giới, hay có thể nói giữa nhân giới. Con người ấy đang lênh
đênh trên con thuyền mà ở đây ông đã khéo dùng “Khách thuyền”
khách cũng chính là thuyền, thuyền thì cô đơn trên bến Phong Kiều mịt mờ sương
phủ, và khách lênh đênh giữa dòng lịch sử với ngổn ngang những dấu hiệu suy
tàn.
Như ta biết TK là một mệnh quan của triều đình,
do đó chắc chắn ông đã nhận ra rằng thời kỳ suy tàn của một triều đại đang trên
con đường sụp đổ, chính trong thời kỳ này loạn An Lộc Sơn, đã làm cho vua quan
phải bỏ cả Trường An mà chạy. Với tư cách là kẻ sĩ, chứng nhân của thời đại, TK
muốn nói lên điều đó, tuy nhiên lịch sử đã cho thấy rằng chữ nghĩa có thể là
tai họa, nhưng không thể không nói, chính vì vậy ông đã mượn bến Phong Kiều gần
thành Cô Tô để gởi gắm thông điệp của mình./.
............................../////////////.........................................
1 - Kiến thức ngày nay số 388 ra ngày 20.5.2001
trang 71.
2 - Tự học Hán văn Nxb Thành phố Hồ Chí Minh
1995 trang 294.
3 - Bình giảng thơ Đường do Nxb Giáo Dục in
năm 2003 trang 84 .
4 - Kiến thức ngày nay số 537 ngày 10.7.2005
trang 43.
5- Tự học Hán văn - Nguyễn Khuê 294,
295. Nxb TPHCM 1995
6 - Báo Văn nghệ- Hội nhà văn số 48 ngày
28-11-1992.
7 - Hội đồ Thiên Gia thi - Chung Bá
Kính do Nhật Tân thư trang ấn hành.
8 - Báo Văn Nghệ - Hội nhà văn số 10 ngày
6-3-1993
9 - Báo Văn Nghệ TPHCM số 77 ra ngày 18 – 24
– 11-1993
10- Đường Thi Tam Bách Thủ độc bản của Sổ
Nghiêu tuyển tập, do Văn Nguyên thư cục ấn hành 1965.
11 -Kiến thức ngày nay số 537 ngày 10.7.2005
12 -Đường thi tam bách thủ hân thưởng của Lưu
Đại Trừng thuật chú do Văn hóa đồ thư công ty ấn hành.
13 - Văn - số 26 – 1993 do Ban văn hoá TW
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Xb trang 62.
(*)Có thể những người này lấy địa danh ngày
nay mà xét. Bởi vì từ sau khi bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế ra đời,
người ta đã lấy các từ trong bài thơ đặt tên núi. Các tên núi này cũng đã đi
vào thi ca như bài “Quá phong kiều tự” của nhà thơ Tôn Địch đời Tống mà trong
Đường thi tam bách thủ giải thích như sau: Nguyên văn:
“Kim nhân hoặc dĩ vi “ô đề”nãi Hàn Sơn tự dĩ
tây hửu ”ô đề sơn”phi chỉ “ô nha đề khiếu “sầu miên” nãi Hàn San tự dĩ nam đích
‘sầu miên sơn” phi chỉ “ưu sầu nan miên” thù bất tri “ô đề sơn” dử “sầu miên
sơn” khước thị nhơn Trương Kế thi đắc danh” Tôn Địch đích “Ô đề nguyệt lạc kiều
biên tự”cú trung đích “ô đề” tức thị minh hiển chỉ “ Ô đề sơn”.
Tạm dịch:
“Ngày nay một số người cho rằng”Ô
Đề”là “núi Ô Đề”phía tây chùa
Hàn San chứ chẳng phải là “tiếng Quạ Kêu”, “Sầu
Miên”là “núi Sầu Miên” phía
nam chùa Hàn San chứ chẳng phải “lo âu khó ngủ”.
(Họ) đâu biết rằng “núi Ô Đề” và “núi
sầu miên” là do vì bài thơ của Trương Kế mà có tên.. Từ “ô
đề”trong câu thơ “Ô Đề nguyệt
lạc kiều biên tự” rõ ràng chỉ”núi Ô Đề”.
(*) Loài quạ
thường sinh sống từng bầy, ban ngày đi kiếm ăn thì chia làm nhiều đàn nhỏ, chiều
về chung sống với nhau. Đặc biệt chúng thường kêu inh ỏi vào buổi sáng sớm, điều
này đã làm cho các nhà điểu loại học hết sức quan tâm, sau nhiều năm
nghiên cứu họ biết rằng loài quạ kêu inh ỏi vào buổi sáng chính là chúng nói
chuyện với nhau, cụ thể là chúng thông tin cho nhau nơi nào có nhiều thức
ăn sau đó chúng mới bay đi kiếm ăn. Thông tin này được phát trên VTV2 trong
chương trình” Thế giới loài vật” đề tài “ Đời sống của loài quạ” ngày giờ tôi
không còn nhớ.
14 - Từ sau khi vua nước Ngô là Phù Sai vì
Tây Thi mà mất nước, thì thành Cô Tô (và tên Cô Tô) nơi Phù Sai xây cho Tây Thi
ở đã trở thành điển tích biểu tượng cho sự suy vong của một chế độ, dẫn đến mất
nước. Theo tôi đây chính là lý do mà TK đã chọn bến Phong Kiều để làm chất liệu
cho bài thơ của mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét