KÝ ỨC MÙA PHẬT ĐẢN
ẢNH MẤY CHỊ EM NĂM 1972
ẢNH TUỆ NHẬT MẶC NHÂN NĂM 8 TUỔI
Tôi đi chùa từ rất nhỏ, vì ba mẹ là tín đồ Phật tử thuận
thành.
Pháp danh được đặt từ khi tôi còn trong bụng mẹ: TÂM HOÀNG.
Quy y với Ngài Thuyền Tôn.
Năm 1972 là thời điểm tôi nhớ được từ khi biết đi chùa, năm
đó tôi 8 tuổi.
Ngôi chùa là địa vị linh thiêng đối với người dân Việt, từ Bắc
chí Nam.
Chùa là không gian văn hóa thuần túy, gắn chặt với sinh hoạt cộng đồng người Việt.
Tôi có số phận gắn chặt với sinh hoạt chùa chiền từ bé mãi cho đến hôm nay. Tôi
vui với định mệnh đó.
Không gian tâm linh là một vấn đề quan trọng và then chốt,
tác động rất lớn tới con người cá thể. Từ khi còn trong bụng mẹ, hài nhi đã nhận
hưởng tác động lành mạnh đó.
Huế tuy nhỏ bé so với các thành phố khác, nhưng chứa đựng một
không gian tâm linh rộng và đẹp, nên người Huế trọng đạo lý và có chiều sâu tâm
thức.
Ngôi chùa đầu tiên Mẹ dẫn đến là chùa Từ Đàm. Chùa diễn ra
nhiều sự kiện lịch sử nên nỗi tiếng ở cố đô Huế. Những lễ nghi quan trọng hằng
năm đều được tổ chức tại ngôi chùa nhỏ này, vì vậy chùa Từ Đàm trở thành điểm
quan yếu và là nơi đoàn tụ của Tăng tín đồ.
Hồi đó trong tôi chẳng biết Từ Đàm là nơi chốn nào. Cứ theo
mẹ lẻo đẻo, được mẹ đánh thức dậy từ 4 giờ sáng, lên đèn cúng hương lễ Phật tại
nhà, sau đó điểm tâm và ăn mặc chỉnh tề để chuẩn bị đi chùa.
Cách ăn mặc đi lễ chùa của người Huế rất bài bản và chu đáo
nhất là vào dịp đi lễ chùa, họ sợ vào chốn trang nghiêm Phật Thánh quở trách.
Thường thì mặc áo tràng màu khói hương tức lam nhạt (kiểu áo dài rộng tứ thân
chỉ dành riêng để đi lễ chùa). Các “ôn và mệ” (cách gọi cụ ông và cụ bà của người
Huế) có thể ăn mặc theo truyền thống: cụ ông mặc áo đen, đầu đội khăn đóng
(khăn quấn) tay cắp dù đen (tức ô), cụ bà mặc áo dài lụa tứ thân, hoặc bằng gấm,
nhung, ... nhưng phải chọn màu trang nhã không được lòe loẹt, đầu phủ khăn ren
hoặc che quạt xếp. Riêng các em nhỏ thì mặc đồng phục quần xanh áo trắng, nếu
có đi sinh hoạt Gia Đình Phật Tử các chùa hoặc các khuôn hội thì ăn mặc theo
đoàn phục riêng (quy định của GĐPT), đôi khi mang cả huy hiệu đoàn.
Ngày xưa, các vua chúa, hoàng thân, quốc thích đi chùa nhiều
nên tạo cho chùa Huế một vẻ trang nghiêm, nề nếp cổ kính. Nhất là các ngôi chùa
có các vị cao tăng, thạc đức trú ngụ, hành đạo.
Nhà tôi thuộc vùng Dương Xuân, cách chùa Từ Đàm chừng bốn cây
số. Mẹ cho ngồi xích lô, đến cầu Nam Giao phải đi bộ vì lượng người đi lễ đã
dày đặc. Tính tôi vốn rụt rè, nhìn đoàn người các ngã đỗ về lúc trời chưa sáng
hẳn thấy choáng ngợp, họ đi có thứ lớp, nghiêm nghị trông như một đoàn dân quân
với nhiều sắc màu lũ lượt, có đoàn còn cầm cả ánh đuốc rực sáng soi đường.
Cung cách tổ chức Phật Đản ở Huế khá đặc biệt, các nhà tổ chức trong Phật giáo có nhiều kinh nghiệm, quá giỏi về bản lĩnh đạo diễn chương trình, nghi tiết bài bản, hấp dẫn, nghiêm trang. Mang nhiều yếu tố đặc sắc: có truyền thống lâu năm, trang trí thiết kế lễ đài hoành tráng, mỹ thuật, chuẩn mực và rất bài bản. Cọng thêm sự quy tụ nhiều bậc Cao tăng, Thạc đức hiện diện và nhiều nhân vật quan yếu khác trong thượng tầng tổ chức Phật giáo đều có mặt nên năng lượng và uy uy đức của buổi lễ rất lớn, tác động đến tâm thức của đại đa số quần chúng Phật tử nên thu hút được các vùng miền trong tỉnh đến tham dự đầy đủ. Các vùng sâu vùng xa như: Nam Đông, A Lưới phải về trước một ngày. Các vùng gần biển như Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền, ... thì phải thức dậy từ nửa đêm. Hồi xưa không có phương tiện đầy đủ, phải dùng đò (thuyền) di chuyển, hoặc phải đi bộ thắp đuốc soi đường mà đi. Đủ biết tín tâm mạnh mẽ của tín đồ đất Thừa Thiên.
Cung cách tổ chức Phật Đản ở Huế khá đặc biệt, các nhà tổ chức trong Phật giáo có nhiều kinh nghiệm, quá giỏi về bản lĩnh đạo diễn chương trình, nghi tiết bài bản, hấp dẫn, nghiêm trang. Mang nhiều yếu tố đặc sắc: có truyền thống lâu năm, trang trí thiết kế lễ đài hoành tráng, mỹ thuật, chuẩn mực và rất bài bản. Cọng thêm sự quy tụ nhiều bậc Cao tăng, Thạc đức hiện diện và nhiều nhân vật quan yếu khác trong thượng tầng tổ chức Phật giáo đều có mặt nên năng lượng và uy uy đức của buổi lễ rất lớn, tác động đến tâm thức của đại đa số quần chúng Phật tử nên thu hút được các vùng miền trong tỉnh đến tham dự đầy đủ. Các vùng sâu vùng xa như: Nam Đông, A Lưới phải về trước một ngày. Các vùng gần biển như Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền, ... thì phải thức dậy từ nửa đêm. Hồi xưa không có phương tiện đầy đủ, phải dùng đò (thuyền) di chuyển, hoặc phải đi bộ thắp đuốc soi đường mà đi. Đủ biết tín tâm mạnh mẽ của tín đồ đất Thừa Thiên.
Hệ thống chùa chiền ở Huế được Tỉnh Hội (GHPGVNTN) điều hành
quản lý thời đó rất chặc chẽ, được hình thành từ thời “Chấn Hưng Phật Giáo”.
Ngoài Ban Đại Diện quận, huyện còn có cả hệ thống quản lý vùng miền, xã thôn, ấp
xóm. Nhất là chú trọng tới sinh hoạt Phật pháp của tầng lớp cư sĩ Phật tử. Ở Huế
nói riêng và khu vực miền Trung nói chung đều có hệ thống Khuôn Hội, Niệm Phật
Đường, Tịnh nghiệp Đạo tràng, ... do cư sĩ Phật tử thành lập, xây dựng, quản lý
được Tăng già chứng minh, hộ trì và nâng đỡ. Nhờ hệ thống này nên các thông tin
lễ hội và sinh hoạt giáo hội được chỉ đạo sinh động, tức thời và hiệu quả. Sinh
hoạt Phật pháp được mở rộng cùng khắp và nề nếp nghiêm mật, sách tấn nhau, nâng
đỡ nhau. Hàng cư sĩ Phật tử ở miền Trung học hỏi giáo lý Phật pháp qua các bậc
Giáo thọ, Sư trưởng là Tăng Ni rất kỷ, hành trì vững vàng, hiệu quả và nhất là
tổ chức GĐPT các địa phương, các thôn làng, ấp xóm, ... hoạt động mạnh mẽ, hấp
dẫn, đi sâu vào quần chúng, nhất là thành phần thanh thiếu niên, đã tạo nên cho
Huế một không gian tâm linh rộng, đều và linh nghiệm.
Mùa Phật Đản là khoảng thời gian háo hức, rực rỡ nhất của Phật
giáo Huế, kéo dài từ đầu tháng tư âm lịch cho đến hết ngày rằm tháng này. Có
nơi còn chuẩn bị trước đó vài tuần lễ.
Lồng Đèn Phật Đản
và Lễ Đài:
Tới mùa Phật Đản, các bạn đi khắp cùng ngõ hẽm ở Huế đâu đâu
cũng thấy làm lồng đèn để trang trí chào mừng Đức Phật Đản Sanh, đã trở thành
truyền thống Phật giáo Huế.
Lồng đèn được chế biến và sáng tạo rất nhiều chủng loại khác
nhau: hoa sen, chữ vạn, hoa mai, bánh ú (hình thoi), ngôi sao, ... cầu kỳ hơn
là lồng đèn lân, ly, quy, phụng, hoặc đèn kéo quân kể về sự tích đức Phật... Xóm
xóm, nhà nhà đều tự làm, tự chế biến, sản xuất, tự trang trí trước cửa nhà mình
để cầu phúc lộc, trừ tà ma, quỹ mỵ. Có những nhà tuy không phải là tín đồ thuận
thành cũng mở lò làm lồng đèn chuyên phục vụ cho mùa Phật Đản. Không khí háo hức
và tưng bừng.
Ngoài các địa phương có chùa viện, tịnh xá, tịnh thất phải bài
trí là điều hiển nhiên, các dãy phố xá, các xóm thôn, khu dân cư, đều thiết lập
cổng chào, trang trí lồng đèn, cờ và làm lễ đài.
Có nơi thiết lập đơn giản, có nơi làm hoành tráng, cọng theo
là khóa lễ cầu nguyện hoặc chương trình văn nghệ cúng dường.
Bánh Lễ và Thức Ăn
Chay:
Ngoài việc trang trí hình thức nhân mùa Phật Đản, người Huế thiết
thực hơn, họ chuẩn bị bánh lễ và thức ăn chay phục vụ Đại lễ. Hầu như khu vực
dân cư nào cũng có nhà sản xuất quà bánh các loại. Bánh lễ thường làm bằng đậu
xanh, bột bình tinh hoặc bánh nếp. Người sản xuất làm khôn đúc thành tháp bánh,
bánh hình tròn, hình hoa sen, ... to nhỏ tùy theo yêu cầu khách hàng, tôi vẫn
thích loại bánh in của Huế được gói giấy kính bóng trong, nhiều màu rất đẹp và
món chè đậu xanh đánh dân dã. Khi chưng các loại bánh lên bàn thờ trông rất
riêng của bánh lễ Huế, trang nghiêm và mỹ cảm.
Thức ăn chay cũng đa dạng và nhiều món đặc sản của riêng Huế.
Các loại bánh được làm từ bột sắn, bột gạo, bột bắp (ngô), bột nếp như: bánh lọc,
bánh ú, bánh đúc, bánh bèo, bánh nậm, bánh ướt, bánh ít, bánh trôi, ... thức ăn đặc sản chay
thì gồm: mít trộn, vả trộn, gỏi ngó sen, gỏi rau má, gỏi rau muốn, mít kho, canh khổ qua, canh củ sen, bún bò
chay, phở chay, bánh canh chay, cơm lá sen, cơm chiên thập cẩm, ... món chao,
món bùi, cũng đặc biệt thơm ngon chỉ có ở Huế.
Thức ăn chay xứ Huế, ngoài việc phục vụ ẩm thực bình dân,
các dì vải ở chùa còn chú trọng tới việc quân bình âm dương, tạo chất liệu thanh
tịnh, thuận tiện cho việc trai giới, hành thiền, tu đạo cho các giới tu tập.
Điều đặc biệt thú vị là vào các ngày mồng một, rằm của
tháng, các quán ăn tự động thay đổi, chế biến món chay để phục vụ. Người dân Huế
ăn chay nhất loạt trong dịp này. Bán đồ ăn mặn sẽ bị ế ẩm và thất đức, thất lộc.
Vào ngày Rằm tháng Tư âm lịch các quán chay mở ra rầm rộ nhất.
Dọc các đường phố gần chùa Từ Đàm và quanh khu vực, các quán chay mọc như nấm để
phục vụ các đoàn khách tham dự lễ. Khu phố chính bờ Bắc sông Hương: Trần Hưng Đạo,
Bạch Đằng, Gia Hội, ... và khu Thành Nội cũng nhiều quán chay nhiều như thế.
Truyền thống ăn chay của người Huế xuất phát từ ý thức hành thiện chứ không phải
theo trào lưu, phong trào. Đây là nét đặc sắc hiếm có của mùa Phật Đản tại xứ
Huế.
Ngoài ra, còn có các lĩnh vực khác để chào mừng Phật Đản: Xe
Hoa, Thuyền Hoa, Thả Đèn Hoa, ...
Đêm mười bốn và đêm rằm Phật Đản, khắp các ngã đường phố Huế và sông
Hương lung linh sắc màu huyền diệu, đánh thức con người trở về với ánh sáng nhiệm
mầu của đức Phật, ánh sáng của lòng từ bi bao la và trí tuệ siêu việt giúp con người
nhận rõ ra mình và mở ra con đường cho chính mình đi đến sự nghiệp: xây dựng đời
sống an lạc và hạnh phúc chân chính.
LỄ ĐÀI PHẬT ĐẢN CHÙA TỪ ĐÀM:
Lễ đài chùa Từ Đàm là lễ đài hoành tráng nhất thành phố Huế
vào mùa Phật Đản. Vào năm đó tôi nhớ mang máng có đôi rồng uốn lượn đỡ tòa sen,
được làm bằng chất liệu vỏ cây và lá cây rất sinh động. Tượng Phật Sơ Sinh của
chùa Từ Đàm rất hảo tướng đặc biệt, xung quanh ngài hào quang được kết tròn bằng
vải phi bóng lộn màu vàng. Phía trước là bộ lư hương ngũ sự (năm thứ: lư hương,
đôi đèn và cặp hạc chầu) được kết bằng các loại hoa quả, đây là loại hình nghệ
thuật đặc sắc và kỳ công của Huế. Sau đó, một lần nữa tôi thấy mà mê mẫn vào dịp
Lễ tang ôn Tăng Thống Thích Tịnh Khiết do Khuôn hội Bửu Hương cúng dường. Sau
này tôi ít thấy chưng bày loại hình nghệ thuật này. Hai bên lễ đài là lịch sử Đức
Phật từ Sơ Sinh đến Niết Bàn cũng làm bằng chất liệu yếm dừa rất mỹ thuật và kỳ
công.
Buổi lễ diễn ra thật trang nghiêm và lạ lẫm, tôi như lạc vào
cõi trời nào, thấy cảnh chùa, cảnh Phật, hình ảnh các thầy, các sư cô và tín đồ
Phật tử đông nghẹt và im phăng phắt tôi chột dạ không dám nói cười, im thin
thít và quan sát. Một cảm giác linh thiêng kỳ diệu thấm vào lòng con trẻ thật ấn
tượng và cảm giác đó theo tôi mãi sau này.
Sau buổi lễ mẹ dẫn đi ăn quà bánh và ăn cơm chay sau chùa,
có lẽ đó là một trong những bữa ăn chay linh thiêng và ngon nhất tôi được thưởng
thức.
Một hai năm sau đó, tôi lại được dịp Mẹ dẫn đi chùa dự lễ giỗ
tổ tại chùa Báo Quốc, ngôi chùa thứ hai của ký ức tuổi thơ tôi, cũng ấn tượng
không kém.
TNMN
PHỤ LỤC:
Chùa Từ Đàm - Ngôi danh lam xứ Huế
Chùa
tọa lạc ở số 01 đường Sư Liễu Quán, phường Trường An, thành phố Huế,
tỉnh Thừa Thiên Huế. Mặt chùa hướng Đông Nam. Bên trái chùa, có chùa
Linh Quang và đền thờ cụ Phan Bội Châu.
Từ một ngôi chùa cổ kính của Thiền phái Lâm Tế, chùa Từ Đàm được xây dựng làm chùa Hội quán Tỉnh hội Phật giáo. Từ những năm 1920, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Tại Huế, An Nam Phật học hội thành lập vào năm 1932 do các vị cao tăng thạc đức, cư sĩ lãnh đạo như các ngài Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, cụ Nguyễn Khoa Tân, cụ Nguyễn Đình Hòa … Năm 1936, chư sơn môn đồng thuận giao chùa cho Hội để làm nơi thờ phụng và làm trụ sở của Hội. Ngày 18-12-1938, Tỉnh hội Phật học Thừa Thiên đã xây chùa Hội quán trên nền cũ chùa Từ Đàm, giảng đường, nhà tăng và một số căn nhà làm việc của Tỉnh hội.
Ngôi chùa cũ có nhà tiền đường, mái ngói, ba gian, rộng 7,4m, dài 18m. Gian trong cùng thờ tượng đức Phật Thích Ca ngự trên tòa sen, tay bắt ấn Tam muội. Tượng bằng đồng, cao khoảng 1,30m, do hai ông Nguyễn Khoa Toàn và Nguyễn Hữu Tuân thực hiện năm 1940. Hai bên tượng treo hai tràng phan, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Ta Bà, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Tịnh Độ. Trên vòng cung trước bàn thờ treo tấm hoành sơn son thếp vàng giữa có ba chữ Hán “Ấn Tôn Tự”, phía trái có mấy chữ Thiên Vận Quý Mùi (1703) Sơ Xuân Cát Đán. Đối diện bức hoành trên là một bức hoành giữa đề bốn chữ “Huệ Nhật Trung Thiên”.
Cổng tam quan chùa được xây dựng năm 1965, phía trong là cội Bồ đề.
Cây Bồ đề này có nguồn từ cây Bồ đề chính tại Ấn Độ, nơi đức Phật Thích Ca thành đạo quả vô thượng giác, đã được nhà sư Mahinda (nguyên thái tử, con vua A Dục) đem giống sang trồng tại Srilanca (Tích Lan) khi qua truyền đạo tại đây vào thế kỷ III trước Tây Lịch. Trưởng lão Narada, người Tích Lan, lấy giống từ cây Bồ đề ở Tích Lan cùng bà Karpelès trong phái đoàn Phật giáo Campuchia tặng Hội Phật học Trung phần và trồng tại đây trong dịp sang thăm Huế năm 1939.
Năm 1951, chùa là nơi tổ chức Hội nghị 51 đại biểu của 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩ ở 3 miền thành lập Hội Phật giáo Việt Nam và phê chuẩn việc Hòa thượng Tố Liên thay mặt Hội Phật giáo Việt Nam ký tên gia nhập Hội Phật giáo thế giới. Bài hát nổi tiếng "Từ Đàm quê hương tôi" của Nguyên Thông đã có nói đến sự kiện quan trọng này : "Ôi ! anh linh bóng chùa Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối nguồn Đạo Vàng ... Từ Đàm ơi ! "
Trong bài viết "Vai trò và vị trí chùa Từ Đàm đối với Phật giáo xứ Huế và miền Trung", Tỳ kheo Thích Hải Ấn cho biết từ năm 1940 ở Huế đã có Ban Đồng Ấu rồi có Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục của bác sĩ Lê Đình Thám lập ra, tụ hôi được nhiều phần tử trí thức tân học thời đó để dạy Phật pháp cho họ. Năm 1943, Gia đình Phật Hóa Phổ ra đời, đến năm 1951, đổi thành Gia đình Phật tử, đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm và lan rộng tới cả miền Bắc và miền Nam.
Ngày 04-7-2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện với chiều dài 42m, chiều ngang 35,9m gồm hai phần, dưới là tầng hầm dùng làm hội trường, trên là ngôi chánh điện, kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, ba gian hai chái, kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày 24-12-2007 (ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi).
Chùa Từ Đàm ngày nay là một ngôi già lam tráng lệ. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca, hai bên có phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Chùa có nhiều hoành phi và câu đối. Xin trích 3 cặp đối do Tỳ kheo trụ trì Thích Hải Ấn ghi lại và dịch nghĩa :
1. Trước hiên chùa, cặp đối do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám soạn :
Phật chính biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức.
2. Trước hiên chùa, cặp đối do cụ Phan Bội Châu tặng :
Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.
般若本無言¾離£四句絕百非đ?化隨緣說無量無邊妙法
菩ì提?先?有願證š?O明具?眼俱圓福?果?¬大—大?Í慈?尊
Nghĩa: Bát-nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm không, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tựu thành quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
Báo Giác Ngộ online và nhiều website thường xuyên thông tin những hoat động ở chùa như : Ngày 29-5-2007, gần 200 Tăng Ni của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế và đoàn sinh gia đình Phật tử Huế đã tham gia hiến máu nhân đạo; từ ngày 01 đến ngày 07-3-2008, lần đầu tiên, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh và tạp chí Văn hóa Phật giáo phối hợp tổ chức Tuần Văn hóa Phật giáo với nhiều hoạt động văn hóa và sinh hoạt trao đổi tri thức diễn ra liên tục trong một tuần lễ tại chùa v.v...
Chùa thường xuyên đón tiếp chư vị Tôn đức lãnh đạo Phật giáo các nước, chư vị học giả, trí thức và nhiều đoàn du khách, Phật tử trong nước, nước ngoài đến thăm, lễ Phật.
Thiền
thất được ngài Minh Hoằng - Tử Dung, vị Thiền sư Trung Hoa dựng vào
cuối thế kỷ XVII (khoảng năm 1690) vào đời chúa Nguyễn Phúc Thái, tại
Hoàng Long Sơn, đặt tên là Ấn Tôn với ý nghĩa lấy sự truyền tâm làm tông
chỉ. Năm 1703, chúa Nguyễn Phúc Chu sắc phong cho chùa là Sắc tứ Ấn Tôn
Tự. Đến năm 1841, vua Thiệu Trị sắc chỉ đổi tên “Từ Đàm Tự” tức đám mây
lành, tượng trưng cho đức Phật, cho ngôi chùa Việt Nam.
Năm 1699, ngài Liễu Quán đã đến cầu học tham thiền với Thiền sư Minh
Hoằng - Tử Dung. Ngài đã trình kệ "Dục Phật" (tắm Phật) được Tổ ấn khả,
truyền tâm ấn trong kỳ an cư kiết hạ năm Nhâm Thìn (1712).Từ một ngôi chùa cổ kính của Thiền phái Lâm Tế, chùa Từ Đàm được xây dựng làm chùa Hội quán Tỉnh hội Phật giáo. Từ những năm 1920, phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam được phát triển ở cả ba miền. Tại Huế, An Nam Phật học hội thành lập vào năm 1932 do các vị cao tăng thạc đức, cư sĩ lãnh đạo như các ngài Giác Tiên, Giác Nhiên, Tịnh Hạnh, Tịnh Khiết, bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, cụ Nguyễn Khoa Tân, cụ Nguyễn Đình Hòa … Năm 1936, chư sơn môn đồng thuận giao chùa cho Hội để làm nơi thờ phụng và làm trụ sở của Hội. Ngày 18-12-1938, Tỉnh hội Phật học Thừa Thiên đã xây chùa Hội quán trên nền cũ chùa Từ Đàm, giảng đường, nhà tăng và một số căn nhà làm việc của Tỉnh hội.
Ngôi chùa cũ có nhà tiền đường, mái ngói, ba gian, rộng 7,4m, dài 18m. Gian trong cùng thờ tượng đức Phật Thích Ca ngự trên tòa sen, tay bắt ấn Tam muội. Tượng bằng đồng, cao khoảng 1,30m, do hai ông Nguyễn Khoa Toàn và Nguyễn Hữu Tuân thực hiện năm 1940. Hai bên tượng treo hai tràng phan, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Ta Bà, một bên đề danh hiệu 7 đức Phật ở Tịnh Độ. Trên vòng cung trước bàn thờ treo tấm hoành sơn son thếp vàng giữa có ba chữ Hán “Ấn Tôn Tự”, phía trái có mấy chữ Thiên Vận Quý Mùi (1703) Sơ Xuân Cát Đán. Đối diện bức hoành trên là một bức hoành giữa đề bốn chữ “Huệ Nhật Trung Thiên”.
Cổng tam quan chùa được xây dựng năm 1965, phía trong là cội Bồ đề.
Cây Bồ đề này có nguồn từ cây Bồ đề chính tại Ấn Độ, nơi đức Phật Thích Ca thành đạo quả vô thượng giác, đã được nhà sư Mahinda (nguyên thái tử, con vua A Dục) đem giống sang trồng tại Srilanca (Tích Lan) khi qua truyền đạo tại đây vào thế kỷ III trước Tây Lịch. Trưởng lão Narada, người Tích Lan, lấy giống từ cây Bồ đề ở Tích Lan cùng bà Karpelès trong phái đoàn Phật giáo Campuchia tặng Hội Phật học Trung phần và trồng tại đây trong dịp sang thăm Huế năm 1939.
Năm 1951, chùa là nơi tổ chức Hội nghị 51 đại biểu của 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩ ở 3 miền thành lập Hội Phật giáo Việt Nam và phê chuẩn việc Hòa thượng Tố Liên thay mặt Hội Phật giáo Việt Nam ký tên gia nhập Hội Phật giáo thế giới. Bài hát nổi tiếng "Từ Đàm quê hương tôi" của Nguyên Thông đã có nói đến sự kiện quan trọng này : "Ôi ! anh linh bóng chùa Từ Đàm, nơi Bắc Nam nối nguồn Đạo Vàng ... Từ Đàm ơi ! "
Trong bài viết "Vai trò và vị trí chùa Từ Đàm đối với Phật giáo xứ Huế và miền Trung", Tỳ kheo Thích Hải Ấn cho biết từ năm 1940 ở Huế đã có Ban Đồng Ấu rồi có Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục của bác sĩ Lê Đình Thám lập ra, tụ hôi được nhiều phần tử trí thức tân học thời đó để dạy Phật pháp cho họ. Năm 1943, Gia đình Phật Hóa Phổ ra đời, đến năm 1951, đổi thành Gia đình Phật tử, đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm và lan rộng tới cả miền Bắc và miền Nam.
Ngày 04-7-2006, chùa đã tổ chức tái thiết ngôi chánh điện với chiều dài 42m, chiều ngang 35,9m gồm hai phần, dưới là tầng hầm dùng làm hội trường, trên là ngôi chánh điện, kiến trúc theo mô hình trùng thiềm điệp ốc, ba gian hai chái, kiểu kiến trúc truyền thống của chùa Huế. Đại lễ An vị Phật đã được tổ chức trọng thể vào ngày 24-12-2007 (ngày rằm tháng 11 năm Đinh Hợi).
Chùa Từ Đàm ngày nay là một ngôi già lam tráng lệ. Điện Phật được bài trí tôn nghiêm. Chính giữa thờ tượng đức Phật Thích Ca, hai bên có phù điêu hai vị Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền. Chùa có nhiều hoành phi và câu đối. Xin trích 3 cặp đối do Tỳ kheo trụ trì Thích Hải Ấn ghi lại và dịch nghĩa :
1. Trước hiên chùa, cặp đối do bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám soạn :
Phật chính biến tri, vô lượng thọ, vô lượng quang, vô lượng công đức.
Học chân thật nghĩa, như thị văn, như thị tư, như thị tu trì.
佛正遍知無量壽無量光無量功德
學真實義如是聞如是思如是修持
Nghĩa:
Phật là bậc Chánh Biến tri, Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức.
Học theo nghĩa chân thật, nghe như vậy, tư như vậy, tu trì như vậy.
Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.
般若本無言¾離£四句絕百非đ?化隨緣說無量無邊妙法
菩ì提?先?有願證š?O明具?眼俱圓福?果?¬大—大?Í慈?尊
Nghĩa: Bát-nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm không, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tựu thành quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
3. Trong điện Phật, cặp đối của cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu soạn :
Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.
般若本無言¾離£四句絕百非đ?化隨緣說無量無邊妙法
菩ì提?先?有願證š?O明具?眼俱圓福?果?¬大—大?Í慈?尊
Nghĩa:
Bát-nhã vốn không lời, rời bốn vế, trừ trăm không, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ năm mắt, tựu thành quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
Chùa
hiện đặt Văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Những
ngày đại lễ của Phật giáo hằng năm như kỷ niệm ngày Phật đản, lễ Vu Lan,
lễ Phật Thành đạo ... và nhiều hoạt động Phật sự khác ở Huế đều được tổ
chức trọng thể tại chùa.
Nhân ngày vía đức Thích Ca xuất gia 08-02 Mậu Tý (2008), Ban Trị sự
Phật giáo tỉnh đã tổ chức Giới đàn Từ Đàm do Hòa thượng Thích Đức Phương
làm Đàn đầu Hòa thượng truyền trao giới pháp cho giới tử xuất gia : Sa
di (112 giới tử), Sa di ni (65 giới tử), Thức xoa (77 giới tử); giới tử
tại gia có 620 giới tử Thập thiện và 70 giới tử thọ Bồ tát giới. Báo Giác Ngộ online và nhiều website thường xuyên thông tin những hoat động ở chùa như : Ngày 29-5-2007, gần 200 Tăng Ni của Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế và đoàn sinh gia đình Phật tử Huế đã tham gia hiến máu nhân đạo; từ ngày 01 đến ngày 07-3-2008, lần đầu tiên, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh và tạp chí Văn hóa Phật giáo phối hợp tổ chức Tuần Văn hóa Phật giáo với nhiều hoạt động văn hóa và sinh hoạt trao đổi tri thức diễn ra liên tục trong một tuần lễ tại chùa v.v...
Chùa thường xuyên đón tiếp chư vị Tôn đức lãnh đạo Phật giáo các nước, chư vị học giả, trí thức và nhiều đoàn du khách, Phật tử trong nước, nước ngoài đến thăm, lễ Phật.
Cổng tam quan
Chùa Từ Đàm (xưa) trước khi xây mới
Mặt tiền chùa Từ Đàm xưa
Điện Phật chùa Từ Đàm xưa
Chùa Từ Đàm (xây dựng vào năm 2007)
Mặt tiền chùa
Điện Phật
Phù điêu Bồ tát Văn Thù
Phù điêu Bồ tát Phổ Hiền
Tổ đường
Đại hồng chung
Trang trí nóc chùa
Lễ đài Phật đản
Tượng bán thân cố bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám
Ảnh cố Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Cây Bồ đề
Bài và ảnh: Võ Văn Tường
Khám phá nét độc đáo trong thói quen ăn chay của người Huế
Tục lệ ăn chay có từ bao giờ? Các món sẽ được nấu ra làm sao? Ăn như thế nào? Rất có thể bạn chưa biết hết đâu..
Ở Việt Nam, nhắc đến ăn chay không thể không nhắc tới Huế, nơi có nhiều
món ăn chay nhất, thậm chí việc nấu đồ ăn chay ở Huế đã trở thành một
nghệ thuật. Việc ăn chay đã thịnh hành từ thời Lý – Trần cho đến đời
chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Huế trở thành thủ phủ của Phật giáo,
tục ăn chay cũng bắt đầu phổ biến ở Huế trong cả tầng lớp quý tộc lúc
bấy giờ. Cho đến ngày nay, người Huế, từ bình dân đến quý tộc, đều có
truyền thống ăn chay, cốt để cho tâm hồn thanh tịnh.
Nếu như bạn có dịp ghé thăm Huế vào
những dịp lễ, đến các ngôi chùa ở nơi đây, bạn sẽ được thưởng thức cỗ
chay mà nhà chùa thường làm để đãi phật tử bốn phương. Mâm cỗ chay rất
đơn giản chỉ gồm tương, muối, rau, dưa… đều là những sản vật do các vãi
cùng những phật tử trồng ngay trong vườn chùa. Bữa cơm đạm bạc là thế
nhưng lúc nào cũng thu hút rất nhiều người.
Người Huế không chỉ ăn chay vào ngày
rằm, ngày mồng một hay ngày lễ, họ ăn chay như một thói quen thường
nhật. Dường như quanh năm, cơm chay đều thường xuyên xuất hiện trong bữa
ăn của những gia đình người Huế. Họ định ngày ăn chay trong tháng gọi
là trai kỳ; ăn chay hai ngày rằm, ngày ba mươi gọi là nhị trai; ăn chay
bốn ngày gọi là tứ trai. Và cứ ngày mười bốn và cuối tháng âm lịch hay
ngày Phật đản, phần lớn các quán bún bò của Huế đều đổi món bán bún
chay.
Ở Huế, hầu hết các gia đình đều tự nấu
những món chay cho bữa ăn. Bữa cơm chay thanh đạm cũng là cách mà người
Huế bày tỏ sự quý mến và tấm chân thành với bạn bè. Đây là một nét văn
hóa độc đáo mà có lẽ chỉ có riêng ở xứ Huế. Bữa ăn ngày Tết cũng vậy,
mâm cỗ ngày Tết ở Huế thường là mâm cỗ chay, cho đến ngày nay, tuy đã có
nhiều thay đổi, nhưng món chay vẫn là những món không thể thiếu trong
mâm cỗ ngày Tết của người Huế.
Đến với Huế, bạn sẽ được thưởng thức từ
cơm chay, bún chay… cho đến đùi gà chay, cá chay, giò chay… Củ, quả,
đậu, dầu thực vật phút chốc đều biến thành những món ăn bắt mắt và hấp
dẫn vô cùng. Đủ các món sơn hào hải vị từ nem công, chả phượng, giò lụa,
thịt gà đến tôm hùm, cá rán nom đẹp mắt vô cùng nhưng đều được chế tác
từ thực vật. Điểm đặc biệt là ngay khi thưởng thức, vẫn cứ ngỡ như là
thịt cá thật. Đó chính là cái tài chế tác từ những bàn tay nội trợ điệu
nghệ xứ Huế. Sự kết hợp hài hòa màu sắc của rau, đậu, hoa quả đã được
xào nấu bằng dầu thực vật, xì dầu, hoặc những món rau sống, khế chua,
dưa hành, nộm hoa chuối...v.v, rồi bày trí các món ăn trên bàn ăn sao
cho đẹp mắt cũng rất được quan tâm. Các món ăn thường được bày ít, và
xếp trên những chiếc đĩa nho nhỏ, khiến thực khách thưởng thức rồi mà
vẫn có cảm giác thòm thèm muốn ăn thêm chút nữa. Món khai vị cho một bữa
tiệc chay ở Huế thường là cà rốt, đu đủ được tỉa thật khéo để trang trí
xung quanh những lát chả phù được làm từ lá phù chúc màu vàng mơ, xen
lẫn là mì căn gói bánh tráng chiên giòn làm nem rán. Súp măng cua được
nấu từ bắp non, nấm rơm, hạt sen… Và tất nhiên không thể thiếu cơm và
xôi rồi.Không chỉ vậy, bạn còn có thể được thưởng thức bánh bèo, bánh lọc, bánh ít… với nhân chay. Và một món ăn quen thuộc thường xuất hiện trong những bữa cơm chay của người Huế chính là món chao. Chao là món ăn có vị gần giống như một món mặn, được chế biến từ đậu nành, làm thành đậu khuôn, đậu khuôn ủ lên men thì thành chao. Chao có hương vị rất hấp dẫn và bảo quản được lâu ngày.
Đất Huế thơ mộng, lại mang nét văn hóa ăn chay độc đáo, thật dễ khiến lòng người nhớ mãi không nguôi…
Sắc màu Phật Đản trên đường phố ở Huế
Lễ Thắp sáng 7 Hoa sen trên sông Hương vào tối mồng 8 tháng Tư, là một dấu hiệu Tuần lễ Phật Đản ở Huế bắt đầu.
Đây là điểm nhấn chính
trang hoàng cho sông Hương và thành phố Huế trở nên thiêng liêng và mầu
nhiệm. Cùng với nghệ thuật sắp đặt các biểu tượng Phật giáo nhân mùa
Phật Đản, trên đường phố các cụm trang hoàng bắt ngang qua những con
đường, những dãy phố rợp bóng cờ đèn, qua những nhịp cầu cong xinh xắn
lên Nam Giao về Bến Ngự; những ngã đường vui nhộn với gánh lồng đèn; bên
những tàng cây bên vệ đường bày bán các loại lồng đèn màu thật thích
mắt.
Mùa Phật Đản ở Huế
chính thức đã về trên mọi nơi, lòng người phơi phới đón chào bằng những
chiếc lồng đèn và cờ Phật giáo treo đầu ngõ, cổng chào ở các con hẻm nhỏ
cũng đua nhau khoe sắc với sự tự giác của người dân trong xóm. Một số
tư gia cũng tự nguyện làm các lễ đài thiết bày tôn tượng Đản sanh, tuy
đơn sơ nhưng biểu lộ lòng thành kính hướng về ngày Phật Đản. Phải nói
rằng Phật Đản là ngày vui tươi, ngày hòa bình của người con Phật nói
riêng, cũng là ngày hạnh phúc an lành của cả nhân loại.
Đức Phật giáng trần
mang lại cho mọi loài hạnh phúc đích thực, cho nhân loại con đường giải
thoát khổ đau. Cho nên dù là Phật tử hay chưa phải là Phật tử, mọi người
đều hướng về ngày Đản sinh của Ngài với lòng hân hoan và thành kính.
Hòa chung với không khí
vui tươi của người dân trong thành phố Huế, phóng viên TTVHPG Liễu Quán
cung cấp hình ảnh hân hoan này đến quí vị gần xa về Tuần Lễ Phật Đản ở
Huế trên đường phố:
Pano "kính mừng Phật đản bên đường Lê Duẫn (trước Nghinh Lương Đình)
Pano "kính mừng Phật đản bên đường Lê Lợi (công viên Lê Lợi-Điện Biên Phủ)
Logo Phật đản Huế tại công viên An Hòa
Cờ Phật giáo và cờ Tổ quốc tung bay bên công viên An Hòa
Và hai bên cầu Nam Giao
Cầu Bến Ngự
Đường Sư Liễu Quán
Sông Hương
Một góc phố
Mang sắc màu Phật đản về nhà
M.N
Sông Hương lung linh với đêm hội hoa đăng
Vào lúc 19 giờ tối nay 5.5 (nhằm
ngày 15.4 âm lịch), trên sông Hương (TP.Huế, Thừa Thiên-Huế), lễ hội hoa
đăng mừng đại lễ Phật đản, phật lịch 2556 đã diễn ra lung linh và sâu
lắng.
Lễ
hội đã thu hút hàng vạn phật tử, công chúng và du khách đến xem và cùng
cầu nguyện cho Tổ quốc vinh quang, thế giới hòa bình, chúng sanh an
lạc.
Lễ hội kéo dài 60 phút với phần nghi lễ cầu nguyện trang nghiêm tại bến Nghinh Lương Đình hướng ra sông Hương.
Ngay sau phần nghi lễ là chương trình nghệ thuật sâu lắng với các tiết mục ca múa nhạc mang đậm âm sắc Phật giáo.
Kết
thúc chương trình nghệ thuật, 15.000 hoa đăng mang theo thông điệp hòa
bình, an lạc đã được thả xuống sông Hương. Phía bờ nam, 51 thuyền hoa
được trang hoàng lộng lẫy cùng với 700 đèn lồng được kết trên 14 khóm
tre phía bờ bắc đã thắp sáng cả một khúc sông trước Kinh thành Huế.
Lễ
hội hoa đăng trên sông Hương cũng là sự kiện cuối cùng khép lại Tuần
văn hóa Phật đản Huế với nhiều sự kiện văn hóa - nghệ thuật và lễ hội
mang màu sắc tâm linh của Phật giáo Huế.
Lửa thiêng tượng trưng cho ánh sáng trí tuệ được lấy từ lễ đài chính tại chùa Từ Đàm - Ảnh: Tuyết Khoa
Chư tăng rước ánh sáng lên xe hoa - Ảnh: Tuyết Khoa
Xe hoa rước ánh sáng diễu qua các đường phố để đưa đến đài đăng tại Nghinh Lương Đình - Ảnh Tuyết Khoa
Chư tăng ni phật tử với nghi lễ cầu nguyện Tổ quốc vinh quang, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc - Ảnh Bùi Ngọc Long
Hòa thượng Thích Giác Quang, Phó trưởng ban thường trực Ban trị sự Giáo hội Phật giáo VN tỉnh Thừa Thiên-Huế rước ánh sáng đến đài đăng - Ảnh Tuyết Khoa
Hòa thượng Thích Đức Phương, Trưởng Ban trị sự Giáo hội Phật giáo VN tỉnh Thừa Thiên-Huế chuyển ánh sáng cho chư tăng để thả xuống sông Hương - Ảnh Tuyết Khoa
Thả hoa đăng xuống dòng Hương - Ảnh: Tuyết Khoa
Các nữ phật tử với nghi lễ cầu nguyện Tổ quốc vinh quang, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc trước khi thả hoa đăng xuống dòng Hương - Ảnh: Bùi Ngọc Long
Những cụm hoa đăng bắt đầu lan tỏa thắp sáng lung linh trên sông Hương - Ảnh: Bùi Ngọc Long
Huế tưng bừng kính mừng Đức Phật đản sinh
Sáng 5/5
(nhằm ngày 15/4 âm lịch) hàng vạn đồng bào phật tử cố đô Huế đã quy tụ
về lễ đài chính tại tổ đình Từ Đàm thành phố Huế để tham dự Đại lễ Phật
đản Phật lịch 2556.
Buổi lễ đặt dưới sự Chứng minh tối cao của Đại lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Thành viên Hội đồng Chứng Minh Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên Huế, Trưởng Ban Tổ chức Đại lễ Phật đản Phật lịch.2556 tại Thừa Thiên Huế.
Từ sáng sớm, mọi ngả đường dẫn về chùa Từ Đàm đã đông nghẹt. Đông đảo tăng ni phật tử từ các tu viện, tự viện, niệm phật đường trong tỉnh đã quy tụ về lễ đài chính tại chùa Từ Đàm tham dự nghi lễ mừng Đức Phật đản sinh.
Cũng trong ngày hôm nay tại nhiều ngôi cổ tự ở Huế đã mở cửa đón hàng vạn du khách đến Huế tham quan mùa Phật đản. Điểm đến nhiều nhất là khu vực đền Huyền Trân nơi có đền thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông và thiền viện Hương Vân./.
Hình ảnh Phật tử Huế kính mừng Đức Phật đản sinh:
Buổi lễ đặt dưới sự Chứng minh tối cao của Đại lão Hòa thượng Thích Đức Phương, Thành viên Hội đồng Chứng Minh Trung ương Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng trị sự, Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật Giáo tỉnh Thừa Thiên Huế, Trưởng Ban Tổ chức Đại lễ Phật đản Phật lịch.2556 tại Thừa Thiên Huế.
Từ sáng sớm, mọi ngả đường dẫn về chùa Từ Đàm đã đông nghẹt. Đông đảo tăng ni phật tử từ các tu viện, tự viện, niệm phật đường trong tỉnh đã quy tụ về lễ đài chính tại chùa Từ Đàm tham dự nghi lễ mừng Đức Phật đản sinh.
Cũng trong ngày hôm nay tại nhiều ngôi cổ tự ở Huế đã mở cửa đón hàng vạn du khách đến Huế tham quan mùa Phật đản. Điểm đến nhiều nhất là khu vực đền Huyền Trân nơi có đền thờ Phật hoàng Trần Nhân Tông và thiền viện Hương Vân./.
Hình ảnh Phật tử Huế kính mừng Đức Phật đản sinh:
Nghi lễ khai mạc sáng 5/5 ở chùa Từ Đàm Huế
Tỏ lòng thành kính mừng ngày đức Phật đản sinh
Phật tử Huế trong mùa Phật đản
Hướng về lễ đài mừng ngày sinh đức Phật
Thành kính dâng ngàn đóa hoa tươi thắm
Hướng về đức Phật với lòng từ bi, bác ái
Các vị Ni sư tham dự đại lễ Phật đản Phật lịch 2556 tại tổ đình Từ Đàm- Huế
Hành hương về tượng đài Quan Âm ở núi Tứ Tượng, xã Thủy Bằn, xã Hương Thủy
Thưởng chuông cầu thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc
Đông đảo du khách đến viếng tượng đài Quán Thế Âm Bồ Tát
Nghi ngút khói hương và nước thánh tại tiền sảnh tượng đài Quan Âm
CTV Hồ Ngọc Minh/VOV online
Nghệ nhân Tôn Nữ Hà:
Lưu giữ hồn văn hóa ẩm thực Huế
(LV) - Trong không gian của khu nhà vườn xinh xắn ở Kim
Long, Tịnh Gia Viên là nơi mà du khách gần xa thường đến để thưởng thức
các món ăn được chế biến tinh túy, công phu của vùng đất cố đô. Đặc biệt
hơn, những món ăn đều được chế biến bởi nghệ nhân bàn tay vàng duy nhất
ở Huế: bà Tôn Nữ Hà.
Mang
trong mình dòng máu hoàng tộc, với niềm đam mê nghiên cứu thú ẩm thực
của các vua triều Nguyễn, suốt 17 năm qua bà đã đóng góp nhiều tư liệu
để Cục Du lịch quảng bá về món ăn cung đình Huế. Bà đã đoạt giải “Bàn
tay vàng” (năm 2003) – một giải thưởng cao quý dành cho nghệ nhân.
Ngoài
giới thiệu những thực đơn Huế tại nhà hàng Tịnh Gia Viên, bà còn tham
gia giảng dạy về kỹ thuật chế biến món ăn, giới thiệu văn hóa ẩm thực
cung đình Huế tại nhiều nước trên thế giới như Iraq, Nga, Pháp, Ý, Bỉ,…
Năm
2000, bà được tập đoàn du lịch Tây Ban Nha mời làm giám khảo và người
trực tiếp chế biến món ăn truyền thống Huế tại cuộc thi Văn hóa Ẩm thực
thứ 21. Và bà đã được tặng thưởng danh hiệu “Người thầy đầu bếp nghệ
thuật”.
Bà
còn là một chuyên gia trong việc trang trí món ăn cung đình. Các loại
củ quả được cắt tỉa tạo hình kỳ công khéo léo và nhiều ý nghĩa đã nâng
giá trị các món ăn lên một tầm mới - một thứ tinh hoa của nghệ thuật ẩm
thực.
Nghệ nhân Tôn Nữ Hà đang chạm trổ hình “Lưỡng long chầu nguyệt” trên trái bí nặng 37kg để làm chiếc đèn lồng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét