TƯ LIỆU KHÓA IV
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI SÀI GÒN (TT)
HÌNH ẢNH HỌP MẶT CỰU TĂNG NI SINH KHÓA IV - 2003
Kỷ yếu
Cảm
nhận đầu tiên -Gs
Tiến sĩ Mai Trần Ngọc Tiếng
Danh
sách
Chương
trình
Địa chỉ liên hệ
Lời cuối
LỜI NÓI ĐẦU (^)
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Vạn
Hạnh Thiền sư
Thịnh
suy, hợp tan là lẽ thường tình. Sau những năm tháng được ở bên nhau chung lòng
học tập cũng phải đến lúc bùi ngùi chia tay. Có quá nhiều hoài niệm đẹp! Làm gì
đây để lưu giữ lại tháng năm thân thương kia để khỏi hối tiếc khi dòng vô tận
của lãng quên cuốn trôi?
Không
ngoài ý nguyện: Xây dựng một hiện tại bền chắc, tự tin hướng đến một tương lai
xán lạn.
Chư huynh đệ thân
mến,
Hôm nay là dịp
thuận tiện để chúng ta ngồi lại với nhau lần cuối, cùng hồi tưởng về những kỷ
niệm điệp trùng trong suốt bốn năm qua ...
Nhớ mãi những
phút giây hồi hộp, lo âu khi bước vào phòng thi tuyển sinh, nỗi mừng vui khi
“dò” được tên mình trên “bảng vàng”. Nỗi bồi hồi xúc động trong tiết học đầu
tiên tại Giảng đường Học Viện, với nhiều gương mặt sáng ngời, hứa hẹn những mối
tâm giao quý báu! ...
Và, cái khó khăn,
cái gian nan cũng dần dần xuất hiện trong sinh hoạt tại trú xứ, trường lớp với
những môn học đòi hỏi phải đầu tư thời gian sức lực. Ôi, căng thăng của những
kỳ thi nghiêm ngặt, kéo dài nhiều môn ... biết kể sao cho hết!
Nhiều biết bao
những nỗi niềm xao động của thời sinh viên ngồi dưới mái Học viện!
Giây phút này,
xin được lạm dùng từ “chia tay” để kết thúc một giai đoạn đã qua, một quãng đời
chứa đầy nhiệt huyết với nguyện ước: Về một mùa hoa trái bội thu.
Mà kỳ thực trong
bốn năm miệt mài qua, chư ân sư giáo thọ, giáo sư không quan lo nhọc, đã tận
tụy truyền trao biết bao kiến thức, khả năng quý báu. Chư vị đã chu đáo trang
bị đủ đầy cho đàn hậu lai của mình tư lương sung mãn để bước vào đời sống, tiếp
nối ngọn truyền đăng bất diệt: Từ, Bi, Trí, Tuệ của Đức Phật làm quang rạng sự
sống muôn loài, dâng tặng nguồn hạnh phúc, an lạc vô tận cho khắp nhân gian.
Ngưỡng bạch chư
Tôn đức,
Kính thưa quý
Liệt vị,
Tập Kỷ Yếu
này là món quà nhỏ kính dâng lên chư Tôn đức và quý liệt vị trong ý thức “Tri
ân và Lưu niệm” mà toàn thể Tăng Ni sinh khóa IV-Học Viện Phật Giáo Việt Nam
tại Saigon đã đem hết sức lực, tâm lực để sớm hoàn thành nhân dịp Lễ phát văn
bằng Cử nhân Phật học.
Mặc dù có nhiều
cố gắng trong suốt quá trình biên tập, những sai sót không sao tránh khỏi được.
Ngưỡng mong chu Tôn Đức và quý Liệt vị lân mẫn hoan hỷ.
Sau cùng, Ban
Biên tập chúng tôi cũng hy vọng tập Kỷ Yếu này đến tay mọi người trong niềm hỷ
lạc chung hướng một lý tưởng: lý tưởng vì lợi ích chung. Tin tưởng sâu sắc về
cuộc tương ngộ vào một ngày mai huy hoàng.
“Xuân lai, xuân khứ, nghi xuân tận
Hoa lạc, hoa khai, chỉ thị xuân”.
Chân Không Thiền sư.
Mong sao tập Kỷ
Yếu luôn là nguồn hứng khởi dạt dào, thú vị.
Kính chúc chư Tôn
Đức Thân Tâm Thường Lạc.
Kính chúc quý
Liệt vi luôn an lành khương thái.
Thân chúc quý
huynh đệ thành đạt mọi sở nguyện trên bước đường phụng sự của mình.
Học Viện, ngày
15/05/2001.
BAN BIÊN TẬP KỶ
YẾU
DIỄN VĂN KHAI GIẢNG
NĂM THỨ NHẤT KHÓA
IV
HỌC VIỆN PHẬT
GIÁO VIỆT NAM tại Saigon
Do Hòa Thượng Viện Trưởng tuyên đọc ngày 25.6.1997
- Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật,
- Kính bạch chư
Tôn giáo phẩm, chư Hòa thượng,
- Kính thưa chư
Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
- Kính thưa quý
vị Giáo sư,
- Kính thưa chư
vị Khách quý,
- Thưa quý Phật
tử cùng Tăng, Ni sinh khóa IV thân mến!
Kính toàn toàn
thể qúy vị,
Hôm nay, ngày
khai giảng năm thứ nhất khóa IV, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon, Hội
đồng Điều hành Học Viện và toàn thể Tăng Ni sinh khóa IV hân hạnh được nghênh
đón chư tôn Giáo phẩm, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và toàn thể
quý vị quang lâm chứng minh, dự lễ thể hiện sự quan tâm và khích lệ đặc biệt
dành cho Tăng Ni sinh. Thay mặt tập thể Hội đồng Điều hành Học Viện, chúng tôi
xin gửi đến quý vị lời chào trân trọng và lời cầu chúc tốt đẹp nhất của chúng
tôi.
Kính thưa quý vị,
Thế là 12 năm đã
trôi qua, 12 năm Trường đã đào tạo 59 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa I, 101 Tăng
Ni sinh tốt nghiệp khóa II, và 234 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa III. Lễ cáp
phát văn bằng tốt nghiệp Khóa III đã được tổ chức trọng thể để đánh dấu các
thành quả giáo dục đáng nhớ như là chuẩn bị cho một hướng phát triển mới đại
học và hứa hẹn theo hướng đi lên của Giáo Hội và xứ sở.
Nay khóa IV có
251 Tăng Ni sinh trúng tuyển chính thức và 39 Tăng Ni sinh được đề nghị với
theo các diện chính sách. Đây là kết quả của một quá trình tổ chức chiêu sinh
và thi tuyển được thực hiện chu đáo theo đúng các yêu cầu của một kỳ thi tuyển
vào đại học. Hôm nay là ngày mở đầu cho một chặng đưòng của bốn năm học mà sẽ
nói lên khá đầy đủ tiếng nói “giáo dục đại học” của Phật Giáo, một chặng đường
của hy vọng mở được hướng học tập cho các Tăng Ni sinh đã tốt nghiệp trong các
Khóa học qua.
Kính thưa quý vị,
Nói đến việc mở
hướng giáo dục là nói đến các yêu cầu phát triển giáo dục jiện nay của Giáo
hội, đó là công việc hoàn chỉnh một hệ thống sách giáo khoa, hoàn chỉnh nội
dung giảng dạy, hoàn chỉnh đội ngũ giảng sư cơ hữu, hình thành một thư viện đại
học, một hệ thống trường ốc và một cơ cấu cung ứng ngân sách an toàn. Tất cả đó
là trọng trách, gánh nặng của Học Viện.
Về đường hướng
nội dung và phương pháp giáo dục, giáo lý Phật Giáo sẽ cung ứng đầy đủ như có
nhiều dịp trước đây chúng tôi đã trình bày. Phật Giáo vốn có một đường hướng,
nội dung, và phương pháp giáo dục thực sự trí huệ, nhân bản và hiện thực hữu
ích cho đời, nói lên được sự thật của thiên nhiên, xã hội, môi sinh, con người,
khổ đau và hạnh phúc và đề bạt được một nếp sống, nếp văn hóa đầy nhân ái, vị
tha vì an lạc, hạnh phúc lâu dài cho số đông. Đó là những gì của Giới đức, Tâm
đức và Tuệ đức hay Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ, có khả năng phát triển sức mạnh
của tâm lý, trí tuệ, sáng tạo, lòng nhân ái, vị tha và bao dung của con người.
Về chuyên viên
giảng huấn cơ hữu, nội dung giảng dạy và sách giáo khoa, tất cả sẽ được đáp ứng
trong một tương lai không còn lâu xa nữa. Như quý vị đã biết, hiện nay Học Viện
đã có một Tăng sinh Khóa I vừa tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học, một Ni sinh Khóa I
sắp tốt nghiệp Tiến sĩ, hai Tăng sinh khác của Khóa I sẽ tốt nghiệp Tiến sĩ
trong một một năm rưỡi tới; 16 Tăng, Ni sinh Khóa II đang khởi đầu biên soạn
luận án Tiến sĩ Phật học để bảo vệ vào hai năm tới tại Ấn Độ; 5 Tăng Ni sinh
khác Khóa II vừa tốt nghiệp Cao Học Phật Học cũng tại Ấn Độ, một Tăng sinh Khóa
II vừa tốt nghiệp Cao học tại Nhật Bản, một sắp tốt nghiệp Cao học, cũng tại
Nhật Bản, một đang theo học Cao học tại Paris, Pháp; một số Tăng Ni sinh Khóa
II đang theo học Hoa Ngữ và ngành Phật học Trung Hoa tại Đài Loan.
Năm nay có thêm
50 Tăng Ni sinh khóa III đã có giấy phép nhập học tại Delhi Ấn Độ va đang tiến
hành các thủ tục du học. Với đà phát triển ấy, chừng 3 đến 6 năm tới, Giáo hội
Phật Giáo Việt Nam sẽ có một đội ngũ giảng sư và nghiên cứu cơ hữu cho ngành
Trung học và Đại học Phật Giáo. Tình hình này đòi hỏi công tác biên soạn giáo
khoa, xây dựng trường ốc và ngân sách sớm được thực hiện. Tất cả đang trông chờ
vào sự hộ trì giáo dục Phật Giáo của toàn thể quý vị.
Kính thưa quý vị,
Bên cạnh nỗi lo,
chúng ta có được niềm tin mà Chánh Pháp ban cho. Thật là ngạc nhiên khi khám
phá ra rằng những lời dạy giải khổ đau của Đức Phật lại bao hàm phong phú các
phương pháp và tinh thần giáo dục tân tiến, bao hàm cả phương thức khảo cứu và
các trắc nghiệm tâm lý rất khoa học. Chỉ một từ ngữ Phật học “Tứ vô ngại giải”
(Từ vô ngại, Nghĩa vô ngại, Pháp vô ngại, Nhạo thuyết Biện tài vô ngại) đã bao
hàm các chuẩn mức sư phạm của một giáo sư. Chỉ một định nghĩa vể Sắc pháp - nội
sắc gồm cơ thể vật lý của cá nhân; ngoại sắc là thế giới vật lý - đã bao hàm
một triết lý về môi sinh và cho đáp án cho cuộc khủng hoảng môi sinh và xã hội.
Chỉ một tập kinh 80 trang của Tiểu bộ kinh - Các câu chuyện Chư Thiên - đã bao
hàm các bước đi của công tác nghiên cứu khoa học (Reseach Methodology) và nhiều
bài học về nhân quả, nhân ái, vị tha. Chỉ trong một trang Kinh Từ bi đã bao hàm
những trăn trở về tinh Người của các giải thưởng Nobel Văn học v.v...
Còn có rất nhiều,
rất nhiều các gợi ý hữu ích, ý nghĩa khác từ Kinh tạng Phật Giáo mà con đường
phát triển giáo dục của Phật Giáo sẽ cống hiến.
Kính thưa quý vị,
Mười hai năm qua,
dù làm giáo dục giữa các nhân duyên giới hạn, nhà Trưòng cũng đã gặt hái một số
thành quả nhất định như đã được trình bày. Đạt được kết quả ấy là do nhờ có sự
quan tâm giúp đỡ của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo Saigon, chính quyền
các cấp, và nhờ sự hỗ trợ tinh thần và vật chất của Chư Tôn Giáo Phẩm, chư Hòa
thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và quý Phật tử. Thay mặt tập thể Học Viện,
chúng tôi xin chân thành bày tỏ nơi đây lòng biết ơn sâu xa nhất của chúng tôi.
Nay chúng tôi xin
được nói chuyện với Tăng Ni sinh khóa IV.
Các con thân mến,
Hai tháng rưỡi
qua là thời gian vất vả của các con tập trung vào việc thi tuyển. Nay sự vất vả
đã được đền bù. Thầy rất hiểu tâm trạng thi đỗ và trượt của Tăng Ni sinh. Thầy
cũng hiểu tấm lòng của các bậc Sư trưởng, phụ huynh đối với các con về kết quả
thi tuyển. Hơn năm mươi năm qua sống trong thế giới của học đường đã khiến Thầy
ái ngại mỗi lần tổ chức thi cử và mỗi lần công bố kết quả thi cử. Hình như có
những hạt nước mắt ở đấy mà một nhà giáo dục phương Tây gọi là “Trường của nước
mắt”. Đã bao lần Thầy và Hội đồng Điều hành nghĩ đến một “Học đường không nước
mắt”, nhưng chỉ thấy đấy là hình ảnh của ước mơ hơn là hiện thực. Biết làm thế
nào khác được? (!). Thi cử là hình thức cần có để đo đạc chất lượng và phát
triển chất lượng giáo dục; hơn thế nữa Thầy và Hội đồng điều hành đang có ý
giới thiệu chất lượng giáo dục đại học của Học Viện Phật Giáo chúng ta, cái
chất lượng bảo đảm giá trị Văn bằng và giá trị mở hướng hậu đại học. Chất lượng
càng cao thì tỉ lệ trúng tuyển càng thấp, và nỗi buồn thi trượt càng nhiều.
Điểm này đã tạo nên một ít ray rứt tâm hồn của một nhà giáo dục Phật Giáo, một
nhà giáo dục nhân bản, đã khiến cho một nhà giáo dục tổ chức thi cử lại mang
tâm trạng, nỗi niềm của một người thi trượt. Thế đấy! Với tâm trạng của một
người thi trượt, Thầy chúc các con tiếp tục nổ lực để gặt hái những thành công
lớn hơn trong học tập. Thầy cũng chân thành cầu chúc hết thảy Tăng Ni sinh đã
dự thi tiếp tục nỗ lực đi tới trên đường học vấn của mình, bởi trước mắt chúng
ta luôn có những cánh cửa khác mở như một ngạn ngữ phương Tây đã nói: “Khi cánh
cửa này khép lại thì cánh cửa khác mở ra”. Môi trường học tập nào trên quê
hương chúng ta cũng cho ta các bài học giá trị. Tương lai của Giáo hội đang chờ
đợi các thành quả học tập của các con. Thầy tin rằng khi ngân sách giáo dục của
Học Viện khấm khá, thì nỗi buồn thi trượt của các Tăng Ni sinh không thể kéo
dài hơn 1 hay 2 năm. Thầy đang muốn nói đến việc rút ngắn khoảng thời
gian chờ đợi giữa hai kỳ thi tuyển vào đại học Phật Giáo.
Chúc các con
thành công.
Kính bạch chư Tôn
Giáo phẩm, chư Hòa thượng,
Kính thưa chư
Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
Kính thưa quý vị
Giáo sư,
Kính thưa chư vị
Khách quý,
Thưa quý Phật tử,
Thưa toàn thể quý
vị,
Sự nghiệp giáo
dục của Phật Giáo là sự nghiệp Trí tuệ. Sự nghiệp này được xây dựng trên cơ bản
của Giới đức và Định đức, nhưng cũng cần được xây dựng trên năng lực hộ trì của
tất cả vật lực và tài lực. Chúng tôi mong rằng các thực thể trong Học Viện Phật
Giáo chúng ta, bao gồm Hội đồng Điều hành Học Viện, Văn phòng, Ban Bảo trợ, Ban
Giảng huấn và tập thể Tăng Ni sinh sẽ mở đầu khóa học, và đi vào khóa học với
một sự đoàn kết chặt chẽ và một sự hòa điệu nhịp nhàng vì lợi ích của Phật Giáo
và của xứ sở.
Chánh pháp luôn
luôn là niềm tin của chúng ta. Với niềm tin này, chúng tôi xin trân trọng tuyên
bố khai giảng năm học thứ nhất của Khóa IV, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại
Saigon.
Xin cảm ơn toàn
thể quý vị.
Nam Mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
ĐẠO TỪ
CỦA HÒA THƯỢNG
TRƯỞNG BAN GIÁO DỤC TĂNG NI
NHÂN DỊP LỄ KHÁNH
THÀNH CƠ SỞ MỚI
HỌC VIỆN PHẬT
GIÁO VIỆT NAM tại SAIGON.
- Kính bạch chư
Tôn giáo Phẩm, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,
- Kính thưa chư
vị khách quý đại diện chính quyền, Đoàn thể, Ban ngành,
- Kính thưa Hội
đồng Điều hành Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon,
- Thưa quý vị
Phật tử, cùng các Tăng Ni sinh.
Tôi vô cùng hân
hoan được tham dự buổi lễ Khánh Thành Cơ Sở Mới của Học Viện Phật giáo Việt Nam
tại Saigon được tổ chức trang nghiêm, long trọng và đầy đạo vị này. Tôi không
ngăn được niềm hỷ lạc khi nhìn thấy tòa kiến trúc mới khá đồ sộ, vững chãi với
sự hài hòa giữa tính hiện đại và tính truyền thống trong nghệ thuật và kỹ thuật
xây dựng, tạo thành một hình ảnh độc đáo tổng hợp của sự tiện nghi và mỹ thuật.
Tôi lại càng vui mừng vì thấy được không khí đầm ấm hôm nay với sự hiện diện
quý báu và chân tình của chư Tôn giáo Phẩm, chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức
Tăng Ni, Chư vị đại diện chính quyền, Đoàn thể ban ngành, chư vị Phật tử và đặc
biệt là Thượng Tọa Thích Quảng Tâm cùng chư vị đại diện Hội Phật giáo Đồng Tu
Đài Bắc, Đài Loan là ân nhân lớn đối với nhiều công trình Phật sự của Giáo hội
Phật giáo Việt Nam, cụ thể là của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon đã
được sự ủng hộ của đông đảo các giới, các ban ngành và quần chúng.
Sụ thành tựu này,
một lần nữa chứng tỏ hiệu năng của tinh thần vượt khó, ý chí phấn đấu và sức
xoay sở, vận động của Học Viện Phật giáo Việt Nam Saigon, của Hòa Thượng Viện
trưởng Thích Minh Châu, người mà nhiều chục năm qua đã đóng góp tích cực cho
Phật giáo Việt Nam, qua những công trình dịch thuật, nghiên cứu Kinh tạng, qua
nổ lực tham gia lãnh đạo và đặc biệt qua việc phát triển giáo dục Phật giáo
Việt Nam.
Thế là từ nay,
Học Viện Phật giáo Việt Nam đã có một kiến trúc tốt đẹp phù hợp với một cơ sở
đại học mà mọi sinh hoạt hiển nhiên là thuận tiện hơn trước đây nhiều. Dĩ
nhiên, một cơ sở khang trang và tiện nghi không phải là yếu tố chủ yếu quyết
định sự thành công của Học Viện mà điều quan trọng nhất vẫn là sự tổ chức, vấn
đề nhân sự và chất lượng sinh hoạt, giảng dạy và học tập. Đến đây, tôi xin được
nhắc lại một số nét cơ bản về giáo dục Phật giáo mà lâu nay Giáo hội xem là nền
tảng trong giáo dục và đào tạo Tăng Ni.
Từ giáo dục chỉ
xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 và cũng như nhiều từ khác của văn hóa,
khoa học phương Tây được người Nhật dịch ra tiếng Nhật theo cách viết chữ Hán
và lại được người Trung Hoa chấp nhận và sử dụng. Trong Phật giáo, tương đương
với từ “Giáo Dục” ta thấy có cả một nhóm từ đồng nghĩa: Cảm hóa, khai hóa,
nhiếp hóa, khuyến hóa, thí hóa, khuyến giáo v.v... Tất cả những từ trên đều đặt
trách nhiệm vào người Thầy, người thực hiện giáo dục nhằm giúp người học tiến
vững trên con đường giải, diệt trừ các ác pháp, tăng trưởng các pháp thiện,
bằng sự thực hiện Giới-Định-Tuệ. Mặt khác, từ “Học” đã xuất hiện từ lâu ở Trung
Quốc, cũng như ở Việt Nam và nhiều nơi khác chỉ sự tìm hiểu, thọ nhận giáo dục,
nghiên cứu, thực hành theo. Trong Kinh sách Phật giáo, từ “Học” nhằm chỉ tính
cốt yếu và thực tiễn của việc tu hành, chỉ sự nghiên cứu chân lý để đoạn trừ
vọng tưởng và lậu hoặc. Học là nhằm thu thập nội dung đồng thời là mục tiêu
Giới, Định và Tuệ bao gồm việc Văn (nghe) Tư (suy nghĩ), Tu (thực hành). Cho
nên Học được xem là đồng nghĩa với tu học, tu tập, tu đạo, tu hành, đều nhằm
đến sụ hướng thiện, tiến bộ, và giải thoát. Tạp A hàm quyển thứ 14 ghi lời Phật
dạy: “Vị tỳ kheo ấy yểm ly dục, hướng về diệt tận, đấy gọi là học”. Như thế,
việc Học trong Phật giáo chỉ nhằm mục đích tối hậu là giải và học để hướng
thiện, là để hành cho tốt đẹp, viên mãn. Đây chính là ý nghĩa đạo đức nổi bật
trong Phật học.
Học là học hành,
là tu hành, là áp dụng cái sở tri vào thực tiễn và tu là tự tu, chứng là tự
chứng; điều này muốn nhắc nhở người học phải tự nổ lực, tự phát huy và áp dụng
sự hiểu biết của mình. Rõ ràng đây là tính thực tiễn, tính tự nhiên và dân chủ
được các nhà giáo dục mới hô hào kể từ hậu bán thế kỷ 18 ở phương Tây, từ thế
kỷ 19 ở phương Đông cho đến ngày nay.
Trong thế kỷ 20,
Phật giáo phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các nước Âu Mỹ, rất nhiều trường đại
học lớn trên thế giới đã nghiên cứu và đưa Phật học vào giảng dạy, thành lập
những phân khoa Phật cò đông đảo sinh viên theo học. Tại Châu Á, ngoài các đại
học Tổng hợp, còn rất nhiều trường đại học Phật học ở Trung Quốc, Đài Loan,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan v.v... Tại Việt Nam, hiện có ba Học Viện
Phật giáo Việt Nam: ở Hà Nội, Thành phố Huế và Saigon, đang có tổ chức và sinh
hoạt theo thể cách của những Trường đại học Phật giáo. Điểm đặc biệt là, cũng
như các Trung Cấp Phật học, các Học Viện Phật giáo chỉ nhằm giáo dục và đào tạo
Tăng Ni. Từ đó, một nội dung giáo dục cần được nêu rõ là giáo dục đạo đức, là
rèn luyện phẩm chất của người tu sĩ Phật giáo, là sự xông ướp giới hạnh, là
việc tu trì giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa. Kinh nghiệm cho ta thấy những Tỳ kheo
phải trở lại thế tục phần lớn là người người có học thức, được nhiều người biết
đến danh tiếng, có được sự sống vật chất khá đầy đủ mà như đức Phật đã dạy, đó
là nguyên nhân đưa đến sự phạm pháp hữu lậu khiến Ngài phải vì hàng Tỳ kheo mà
kiết giới. Do đó, mọi cơ sở giáo dục Phật giáo trước hết cần phải là một cơ sở
giáo dục về Đạo đức Phật giáo.
Kính thưa Chư
liệt vị,
Đã 14 năm trôi
qua kể từ khi thành lập Cao Cấp Phật học Việt Nam và chuyển đổi thành Học Viện
Phật giáo Việt Nam tại Saigon, cơ sở giáo dục này đã phát triển không ngừng và
đạt được những thành tựu khả quan. Tôi hết sức tán thán khả năng cao, nổ lực
lớn và kinh nghiệm phong phú của Hòa Thượng Viện Trưởng và của Hội đồng Điều
hành Học Viện. Tôi cũng đã thông cảm những khó khăn, đặc biệt là khó khăn về cơ
sở vật chất, vì chính tự thân tôi cũng đã và đang gặp phải khi tổ chức các khóa
Phật học, trường Cơ bản Phật học và Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố
Huế. Đến nay thì với tòa kiến trúc mới này nhất định những khó khăn như trên sẽ
vơi đi nhiều và chúng ta có thể tin tưởng rằng Học Viện Phật giáo Việt Nam tại
Saigon xứng đáng là nơi sinh hoạt của một cơ sở giáo dục hàng cao cấp nhất của
Giáo hội, nổi bật trong ngành giáo dục Tăng Ni và sẽ không ngừng đạt những
thành quả tốt đẹp, góp phần xây dựng, phát triển hữu hiệu cho Đất nước và cho
Giáo hội. Xin cảm ơn toàn thể Quý vị.
Nam mô Bổn Sư
Thích Ca Mâu Ni Phật.
Vài nét về:
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM tại SAIGON
Học Viện Phật giáo
Việt Nam tại Saigon tọa lạc số 716, Nguyễn Kiệm, P.4 Quận Phú Nhuận, Saigon.
Đây là một cơ sở giáo dục cấp Đại học, Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Học
Viện PG Việt Nam tại Hà Nội, Học Viện PG Việt Nam tại TP Huế), được thành lập
từ ngày 25 tháng 02 năm 1982 theo Nghị quyết phiên họp thứ nhất của Ban Thường
trực Hội đồng Trị sự Trung ương và theo Quyết định 0160/QD ngày 17 tháng 03 năm
1983 của Ủy ban nhân dân Saigon. Mục đích của Học Viện là nhằm đào tạo những
Tăng Ni có kiến thức Đại học về giáo lý căn bản của các bộ phái Phật giáo, lịch
sử Phật giáo Việt Nam và văn hóa (Phật giáo) Việt Nam, để sau khi tốt nghiệp Cử
nhân Phật học có thể tiếp tục học cấp Cao học, Tiến sĩ, trở thành nghiên cứu
viên Viện Nghiên cứu Phật học, hoặc đảm trách các công tác chuyên môn, Phật sự
tại Trung ương Giáo hội, Ban Trị sự tại các Tỉnh, Thành trong toàn quốc.
Hệ thống tổ chức
của Học Viện Phật giáo tại Saigon gồm có Hội đồng Điều hành, Ban Học vụ, Ban
Giảng huấn, Văn phòng Điều hành, Ban Đại diện sinh viên và Ban Bảo Trợ. Theo
quy chế thì Học Viện thu nhận Tăng Ni sinh trên toàn quốc theo một số tiêu
chuẩn sau:
1.- Tăng Ni sinh
thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, được sự giới thiệu của Giáo hội và Ban Tôn
giáo cấp Tỉnh Thành, và chính quyền địa phương xác nhận.
2. Tốt nghiệp
trường Cơ bản Phật học (nay là trường Trung Cấp Phật học) và tốt nghiệp phổ
thông trung học (tú tài), đã thọ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
3.- Trúng tuyển
kỳ thi tuyển sinh vào Học Viện gồm ba môn thi: Phật pháp căn bản; Văn học Việt
Nam, Anh ngữ (chương trình lớp 12 hiện hành).
Học Viện Phật
giáo Việt Nam theo chế độ niên chế, kéo dài trong 4 năm, mỗi năm học có hai học
kỳ, mỗi học kỳ kéo dài bốn tháng rưỡi. Cuối mỗi học kỳ đều có thi kiểm tra cuối
học kỳ. Điểm trung bình của hai học kỳ mỗi năm phải đạt điểm 10/20 mới được cấp
chứng chỉ cuối năm và được học tiếp năm kế tiếp. Các sinh viên Tăng Ni nếu đạt
yêu cầu trong 4 năm học sẽ được cấp 4 chứng chỉ và hoàn thành luận văn tốt
nghiệp sẽ được Học Viện cấp văn bằng Cử nhân Phật học.
Chương trình học
của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon được phân bổ trong 4 năm. Mỗi năm
Tăng Ni sinh học trong 9 tháng, mỗi tháng 4 tuần, mỗi tuần 24 tiết. Số học
trình Tăng Ni học mỗi năm tương ứng 864 tiết, hoàn tất chưong trình 4 năm là
3456 tiết. Cụ thể như sau:
Phần Nội điển:
- Kinh luật, Luận
Phật giáo - chuyên sâu về các giáo lý căn bản như Duyên khởi, Tứ đế, Nhân quả,
Nghiệp báo, Tái sinh, Ngũ uẩn, Thập Nhị xứ, Thập bát giới.
- Một số kinh
tiêu biểu của Thượng Tọa Bộ, Nhất Thiết Hữu Bộ, và Phật giáo phát triển.
- Lịch sử tư
tưởng các bộ phái (hay Tông phái Cương yếu) - Giới luật của ba bộ phái - Văn
học Phật giáo Việt Nam - Lịch sử Phật giáo Việt Nam - Thực tập thiền định.
Phần Ngoại điển:
Gồm các môn học
thuộc chương trình Đại học Đại cương như: Lịch sử Việt Nam, Văn học Việt Nam,
Thẩm mỹ học, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Văn minh Việt Nam, Đại cương Cơ sở Văn hóa
Việt Nam, Môi sinh học, Tôn giáo học, Công dân giáo dục, Xã hội học, Triết
Đông, Triết Tây, Triết học Mac Le-nin, Giáo dục học, Quản trị hành chánh. Ngoài
ra, trong chương trình học còn có các môn học cổ ngữ và sinh ngữ như: Sanskrit,
Pàlì, Hán cổ, Hoa văn, Anh văn thuật ngữ và Anh văn thực hành.
Phần chuyên môn:
Một số kinh tiêu
biểu của ba bộ phái thuộc hệ Nikàya, A hàm, và Đại Thừa Phật giáo (Pháp Hoa,
Viên Giác, Kim Cương, Hoa Nghiêm, Lăng Già, Bảo Tích)... Lịch sử tư tưởng các
bộ phái (hay các tông phái của đạo Phật), Giới luật căn bản của ba bộ phái, Văn
học Phật giáo Việt Nam, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thiền học Việt Nam, Thiền
học thực hành, Luận lý học Phật giáo (hay Nhân minh học Phật giáo), Luận A tỳ
đàm, Luận Thanh tịnh đạo, Duy thức luận, Luận Câu xá, Luận Trung quán, Văn học
Phật giáo thế giới, Lịch sử Phật giáo thế giới.
Ngoại khóa và
luận văn tốt nghiệp:
Ngoài chương
trình học chính thức với các môn học vừa nói trên, Học Viện còn tổ chức chưong
trình ngoại khóa do các Giáo sư, Học giả, Tiến sĩ trong và ngoài nước đến
thuyết giảng về các đề tài Phật học và các đề tài khác có liên quan đến Phật
học như Văn học nghệ thuật và Mỹ thuật, Hội họa, Âm nhạc, Xã hội, Môi trường,
Hiến pháp, Sinh hoạt Đại học v.v... nhằm bổ túc kiến thức cho Tăng Ni sinh. Bên
cạnh đó, Ban Học vụ và Ban Giảng huấn còn tổ chức hướng dẫn cho Tăng Ni sinh
làm Luận văn tốt nghiệp theo yêu cầu ở cấp Cử nhân Phật học.
Tứ lúc thành lập
đến nay, Học Viện Phật giáo Việt Nam đã và đang đào tạo 4 khóa cấp Cử nhân Phật
học. Khóa I (1983-1987) có 60 sinh viên. Khóa II (1988-1992) có 100 sinh viên.
Khóa III (1993- 1997) có 234 sinh viên. Khóa IV (1997-2001) có 287 sinh viên
đang theo học và sắp sửa tốt nghiệp.
Sau khi tốt
nghiệp Cử nhân Phật học, nhiều sinh viên tiếp tục chương trình hậu Đại học
(Thạc sĩ vả Tiến sĩ) tại các nước như: Ấn Độ (có 120 sinh viên), Đài Loan,
Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp và Tích Lan. Trong vòng hai năm nữa, số Tăng Ni sinh
tốt nghiệp của Học Viện sẽ trình xong Luận án Tiến sĩ tại nước ngoài lên đến 50
vị. Trong thời gian tới Học Viện sẽ hoàn chỉnh cơ sở mới với kinh phí xây dựng
trên 10 tỷ đồng Việt Nam, tiến tới mở cấp đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ Phật học.
Tất cả mọi nổ lực của Học Viện là nhằm đào tạo đội ngũ Tăng Ni sinh thích ứng
với nhu cầu phát triển mới của đất nước và Giáo hội, Học Viện thiết tha kêu gọi
các tổ chức và cá nhân Phật tử cùng với các thành viên Ban bảo trợ, đứng đầu là
vị Trưởng Ban Đạo hữu Nguyên Đào nổ lực đóng góp để Học Viện ngày càng thăng
tiến trong công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni trẻ.
Hai hướng vận hành của
tâm lý
Thượng Tọa Thích Chơn Thiện
Phó viện trưởng
thường trực
(Thân tặng Tăng
Ni sinh khóa IV)
I. Vào đề:
Tâm lý con người
có hai hướng vận hành: một là khổ đau hay dẫn đến khổ đau, hai là hạnh phúc hay
dẫn đến hạnh phúc. Hướng thứ nhất mở ra một thế giới tâm lý của sinh tử; hướng
thứ hai mở ra thế giới tâm lý của giải. Bởi sống là đi tìm hạnh phúc chân thật,
nên con người chỉ có một chọn lựa là đi vào hướng vận hành thứ hai. Đi vào
hướng vận hành này là đi vào trí tuệ, hay đi từng bước đi trí tuệ. Thực hiện
con đường thứ hai này có nghĩa là “xây dựng vương quốc trí tuệ” của Phật giáo
mà thuật ngữ gọi là Dhammacakkapavattana, thường được dịch là “Chuyển vận bánh
xe Pháp”.
Trong bài viết
này, tác giả sẽ giới thiệu ngắn, gọn về hai hướng vận hành của tâm lý nói trên.
II. Hai hướng vận
hành của tâm lý:
Có nhiều kinh Nam
tạng và Bắc tạng nói đến các hướng tâm lý vận hành. Ở đây, tác giả nêu dẫn một
số kinh tiêu biểu.
1. Kinh Chánh Tri
Kiến (Kinh 9, Trung bộ I, Pàli tạng).
Theo kinh Chánh
Tri Kiến, do vì con người thường tác ý về các ngã tướng của mọi sự vật, xem các
ngã tướng là có thật nên tham tâm, sân tâm và si tâm hiện khởi đẫn đến hệ quả:
tâm lý dao động, tác động lên các hành động của thân, lời và ý mà biểu hiện ra
mười bất thiện nghiệp nuôi dưỡng Vô minh và Khổ đau. Cứ thế, tâm lý vận hành ra
một thế giới của Tam Giới (Tibhava) sinh diệt, của các ngã tướng sinh diệt.
Nếu, ngược lại, thường tác ý vô thường tướng, hay như lý tác ý -
Yonisomanasikàro - thì tâm lý vô tham, vô sân (hay từ), vô si hiện khởi và điều
động các hành động của thân, lời và ý biểu hiện ra mười thiện nghiệp, nuôi
dưỡng trí tuệ. Cứ thế, trí tuệ ấy vận hành thành thế giới của tâm lý vắng mặt
ngã tướng, ngã tưởng, gọi là Vô sinh. Con đường chỉ có thể và gọi là con đường
của “trí quán”.
2. Kinh Kim Cang
Bát Nhã:
Nếu để tâm đi vào
các ngã tướng thì tham, sân, si dấy khởi và sẽ làm tâm lý dao động, không an
trụ. Các ngã tướng ấy có thể được giới thiệu qua tám phạm trù:
a) Ngã tưởng:
Tưởng ‘Cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi’.
b) Nhân tưởng:
Tưởng rằng có một ngã thể thường hằng luân hồi, tái sinh từ đời này qua đời
khác.
c) Chúng sinh
tưởng: Tưởng rằng co một ngã thể biệt lập của các hiện hữu,
đồng nhất với chính nó qua các thời điểm khác nhau.
d) Thọ giả tưởng:
Tưởng rằng bên trong con người có một ngã thể thường hằng tồn tại từ khi sinh
đến khi chết.
e) Pháp tưởng:
Tưởng rằng có các pháp thực sự hiện hữu.
f) Phi Pháp tưởng:
Tưởng rằng có một hiện hữu chân thật ở ngoài các pháp.
g) Tưởng: Tin
rằng cái tưởng tạo ra tính chất của các hiện hữu là có thực trong thực tế.
h) Phi tưởng: Tin
rằng thế giới chân thật thì ở ngoài tưởng.
Nếu tâm lý không
rơi vào tám phạm trù ngã tưởng ấy thì sẽ đi ra khỏi các nhân tố gây ra tâm lý
dao động, và sẽ được an trụ. Đấy là những gì mà một Bồ tát hành lục độ Ba la
mật phải làm, qua kinh Kim Cương. Đấy là công phu “như lý tác ý”, hay tác ý Vô
tướng gọi là “thiền quán”.
3. Pháp Thất Giác
Chi (Tương Ưng V):
Con đường thực
hiện trí tuệ của Thất Giác Chi tựu trung là:
a) Liên tục tác ý
Vô tướng, hay “như lý tác ý” thì sẽ đi đến kết quả: Ngũ triền cái được đoạn
trừ.
b) Ngũ triền cái
là thức ăn của Vô minh nên khi Ngũ triền cái bị đoạn thì Vô minh đi đến bị đoạn
trừ, minh khởi.
c) Nếu tiếp tục
thực hành như thế thì Niệm giác chi sẽ hiện khởi và lần lượt dẫn đến Trạch
pháp, Hỷ, Khinh an, Định và Xả Giác Chi hiện khởi. Xả giác chi hiện khởi sẽ dẫn
đến kết quả Minh và Giải hiện khởi, Vô minh diệt và khổ đau diệt.
III. Kết luận:
Con đường thực
hiện trí tuệ của Phật là thế, giản dị là thế. Nhưng, bởi con người có các nhận
thức, từ tâm, ý chí và dục vọng khác nhau nên lòng trăn trở khác nhau về ngõ
đường thực hiện mà có ra các hệ phái, pháp môn tu khác nhau.
Nếu tất cả đều
thấy rõ công phu chính của giải là “như lý tác ý” để hàng phục tâm lý dao động
của chính mình, thì sẽ đi ta khỏi cái thắc mắc về bộ phái, về Đại, Tiểu pháp,
về sự hư, thật của hiện tượng giới. Bấy giờ vai trò của triết lý sẽ chấm dứt
cùng lúc với các quan điểm dị biệt, mùa xuân của tâm thức sẽ ở lại mãi với cuộc
đời như là sự kiện “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
Tỳ kheo Thích
Chơn Thiện
Thơ Giáo sư Nguyễn Khuê
Chùa Núi
Chùa xưa ẩn khuất
lưng đèo,
Phồn hoa dứt nẻo,
đèo heo gió ngàn.
Cửa Thiền sạch
bụi trần gian,
Trong hư vô nhớ
ba ngàn cõi xa.
Chùa Vô Ưu
Phiền ưu vốn nghĩa đời
Lòng tục dẫu rối bời
Vào cổng chùa thấy Bụt
Phiền ưu dường nửa vơi
Vô ưu bởi vô cầu
Thơ hứng ngâm vài
câu
Kìa trời xanh mây
nổi
Và bọt nước sóng
xao
Chùa Lục Dung
Sáu cây đa nào
thấy cây đa
Cái lẽ vô thường
đã rõ ra
Điện tháp oai
nghiêm hương khói tỏa
Tìm đâu bút tích
của Đông Pha
Chùa chỉ còn tên
suông Lục Dung
Bồ đề không cây,
đa cũng không
Đông Pha, Lục Tổ
mờ thiên cổ
Kim cổ mang mang
nói chẳng cùng.
Ghi chú: Chùa
Lục Dung là một ngôi chùa nổi tiếng của Trung Quốc, tọa lạc tại trung tâm thành
phố Quảng Châu
Thượng Tọa Thích Giác Toàn
I. Khái niệm về
nhân cách:
Một cách tổng
quát, nhân cách là tính cách đặc biệt của một con người trong suy nghĩ, cảm
nhận và thái độ hành xử của người ấy. Nhân cách bao gồm thể cách thái độ, ý
kiến, và được thể hiện trong quan hệ với những người khác. So với hành vi, thói
quen thì nhân cách có tính cố hữu hơn và có tính chất lọc từ những gì thu đạt
được trong quan hệ của một người với môi trường và xã hội.
Dĩ nhiên, như vẫn
thường thấy trong triết học, có nhiều định nghĩa về nhân cách. Trong tâm lý
học, nhân cách được hiểu theo hai khía cạnh.
1. Do quan sát,
nhân cách được giải thích và xếp loại một cách tương đối về những đặc tính tâm
lý của con người.
2. Xét những tính
chất khiến mọi người giống nhau hay mọi người khác nhau với những người khác về
mặt tâm lý. Từ đó, xét về nhân cách là xét con người thể hiện mình như thế nào
và xét đâu là nguyên nhân của sự thể hiện ấy.
Khái niệm về nhân
cách đã có từ thời Hy Lạp cổ đại và phát triển cho đến thế kỷ XVI ở Châu Âu,
theo đó nhân cách là sự hài hòa của bốn chất lỏng (từ La tinh gọi là humor) là
máu, đờm, giận, buồn (giận buồn là biểu hiện của màu mặt) chỉ sự quân bình của
tinh thần. Về sau, do yêu cầu chữa trị bệnh kể cả bệnh cơ thể và tâm lý, nhiều
lý thuyết về tinh thần và cụ thể là lý thuyết về nhân cách (personality) được
đề ra. Đặc biệt yêu cầu về giáo dục nhân cách càng lúc càng trở nên cần thiết
khi giáo dục phát triển và những vấn đề con người trong xã hội mới được đặt ra
trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Theo Sigmund
Freud (1856-1930), nhân cách gồm dục tính, ngã, và siêu ngã (ld,ego,
superego), trong đó dục tính là quan trọng nhất, dục tính tiếp
xúc với thế giới đã tạo nên ngã, và từ ngã, có một siêu ngã để đánh giá nó. Dục
tính hay bản năng là nguyên nhân và động lực tạo ra nhân cách.
Carl Jung (1875-1962) tiếp tục triển khai cái mà Freud gọi là tiềm thức và chủ
trương nhân tính vốn hình thành từ những hồi ức gốc (radical memories) mà ông
gọi là tiềm thức tích tập (collective unconscious). Do xếp các hồi ức này, Jung
phân biệt nhân cách hướng nội và nhân cách hướng ngoại của một con người.
Alfred Adler
(1879-1973) nhấn mạnh ảnh hưởng xã hội vào nhân cách và xem đây là phần chủ yếu
của nhân cách; phản khác là cái xu hướng muốn tiến đến quyền lực để cân bằng
mặc cảm tự ti.
Erich Formn
(1900-....?) xem nhân tính là bản năng (như thú vật) và sự tự ti, lý trí và óc
tưởng tượng (như con người), đồng thời nhấn mạnh phần ảnh hưởng của xã hội.
Carl Rogéry (1902-1987) chỉ chấp nhận cách cư xử như là biểu hiện của nhân tính
của một người trong hiện tại đối với hoàn cảnh chung quanh. Trong chiều hướng
đó, Rogers nói đến cái quan niệm về ngã hay cái cơ cấu ngã (self-concept hay
self-structure).
Nhân cách còn
được bàn đến qua các cơ cấu khác nữa kể từ năm 1930 đến nay: Ross Stognné,
Goren W. Aliport, Henri A. Marray, Gardner Murphy ... trong khi Erik Erikson có
tham vọng tạp hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội thành một học thuyết trọn
vẹn về sự phát triển và thay dổi của nhân cách bao gồm suốt đời người.
Thực tế hơn,
những cuộc trắc nghiệm tâm lý để tìm hiểu nhân cách bằng sự thống kê
(inventories tests) hay sự bày tỏ (phóng chiếu) của người được trắc nghiệm
(projective tests) của các trường đại học Mỹ như Minnesota, California
(Minnesota multiphasic personality inventory, thematic Apperception test ...)
thu được một số thành quả nhất định trong việc khám phá, giáo dục nhân cách.
Nhìn chung, giáo dục nhân cách càng lúc càng được coi trọng và có lịch sử lâu
dài kể từ thế kỷ trước, nó tiếp tục được dò dẫm, phát triển mãi cho đến ngày
nay.
Mục đích của giáo
dục phương Tây là để tìm hiểu con người, tâm hồn con người, tâm lý hay bản chất
con người, để xây dựng một nhân cách tốt, cải thiện nhân cách chưa tốt. Mục
đích này là của giáo dục học, xã hội học, tâm lý học và tâm lý trị liệu, thậm
chí cả sinh lý trị liệu.
Tuy nhiên, hiện
nay một định hướng cho con người vẫn chưa cụ thể rõ ràng và những căn bệnh tâm
lý, xã hội vẫn có dấu hiệu càng lúc càng trầm trọng. Nếp sống buông thả, phóng
đãng, vô định vẫn càng lúc càng nhiều, hiện tượng cuồng tín, sát nhân, tự tử
càng lúc càng gia tăng, đó là chưa kể những sa đọa tinh thần, đạo đức trầm
trọng khác ... Như thế nghĩa là giáo dục nhân cách của phương Tây và của nhiều
nước phương Đông đang bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây chưa được định hướng
đúng đắn, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, của thời đại.
Chúng ta không
phủ nhận những nổ lực đáng kể của phương Tây trong việc nghiên cứu nhân cách.
Đó là việc càng lúc càng đào sâu vào bản năng trong tâm lý của con người. Ta
thấy bàn đến bản năng, dục tính, đến các thái độ tâm lý, đến cách cư xử, đến
ngã, đến siêu ngã, đến sự bẩm sinh, đến ảnh hưởng của môi trường, của xã hội
với nhân cách của một người và của một nhóm người, của toàn thể loài người.
Nếu xét nhân cách
trong Phật Giáo ta sẽ thấy nhân cách được bàn không chỉ khởi từ bản năng, dục
tính mà còn được đào sâu hơn, mở rộng hơn khi xét đến con người ngũ uẩn.
II. Nhân cách
trong giáo dục Phật Giáo:
Như đã nói, con
người theo quan điểm của Phật Giáo là con người ngũ uẩn, tập hợp của 5 thành
tố: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Khi con người có ý thức về mình thì con
người đã là một chúng sinh của cõi hữu vi, của thế giới hiện tượng, vô thường,
khổ đau, tức là con người được hình thành bằng ngũ uẩn. Vậy, bàn đến nhân cách
là bàn đến những nét chung và riêng của những hành vi, của tâm lý, cách cư xử,
tính tình của một cá nhân, nghĩa là bàn đến nhân cách hay tính chất của cái tập
hợp ngũ uẩn.
1. Con người ngũ
uẩn:
Ngũ uẩn gồm sắc
(vật chất, hình tướng), thọ (cảm nhận, cảm giác khi tiếp xúc với các sự vật,
đối tượng), tưởng (suy nghĩ, so sánh đối chiếu), hành (vận động, hành
động của thân, miệng, ý), thức (cái biết do các quan năng mang lại). Con người
theo Phật Giáo là tập hợp của 5 thành tố trên, ngoài ra không có gì khác. Tập
hợp là một từ bao hàm trong nó ý nghĩa hữu vi, bị điều kiện hay bị chi phối bởi
nhân duyên. Mỗi một thành tố tự nó cũng là do nhân duyên, tức là không có cái
sắc nào tự đứng một mình, không có cái thọ nào, tướng nào, hành nào, thức nào
tự thành lập mà không có sự hiện diện, hỗ trợ của các thành tố khác. Tóm lại,
tất cả các thành tố và tập hợp các thành tố đều do nhân duyên, như vậy lý duyên
khởi là yếu tính của sự thành lập ngũ uẩn. Và đã như vậy thì tập hợp ngũ uẩn
hay con người, xét cho cùng không thể hàm chứa một ngã tính nào cả. Không có
ngã tính, không có ngã, và do đó cái gọi là nhân cách con người chỉ là nói tạm
thời, qui ước mà thôi.
2. Nhân cách:
Bản chất của con
người là vô ngã, nhưng vì con người là con người của cõi hữu vi, mọi người đều
có tâm lý, thái độ, hành xử, tư duy ... giống và khác với những người khác nên
chúng ta phân biệt nhân cách người nói chung và nhân cách của một người nói
riêng.
Theo quan điểm
của đạo Phật, con người là duyên khởi, cụ thể là tập hợp của ngũ uẩn. Con người
tự nhận mình có ngã là do thói quen từ vô thỉ, thói quen chấp trước, phân biệt,
cho rằng cái tập hợp ngũ uẩn là ngã. Cái thức (A lại da) mang các chủng tử được
huân tập từ bao đời bao kiếp được nhận là một ngã-linh-hồn. Cái hoàn cảnh chung
của cái sức sống tương tục, hay nói khác đi, là nghiệp hay nghiệp lực của thế
giới này (hay cộng nghiệp) khiến người ta có những thái độ, hành xử, tư duy
giống nhau, như đau buồn trước sự mất mát, giận dỗi khi bị xúc phạm, vui mừng
khi được xứng ý. Như vậy, nghiệp đã tạo ra nhân cách, hay nói khác đi, nhân
cách của một người chính là nghiệp của người ấy.
Phật Giáo chấp
nhận khá nhiều học thuyết về tâm lý, về nhân cách của các triết gia, các nhà
khoa học hiện đại, nhưng điều đặc biệt là Phật Giáo còn đi sâu hơn những học
thuyết ấy trong việc xem các bản năng, dục tính, ngã, siêu ngã, tiềm thức có
gốc gác trong những đời trước. Trong khi bàn về nguyên nhân của nhân cách trong
Phật Giáo, người ta phải đụng chạm đến 12 chi phần duyên khởi, 5 thành tố trong
tập hợp ngũ uẩn, 3 tính chất căn bản của con người là: tham, sân, si.
Tham, sân, si là
biểu hiện của tự ngã sai lầm, của cái ngã khổ đau nhưng lý duyên khởi cho ta
biết rằng ngã vốn không, cho nên cái tính không vẫn là bản chất của nó. Mặt
khác, vô tham, vô sân, vô si là biểu hiện của cái vô ngã. Đây là hai mặt của
một nhân cách. Do hai mặt này, nhân cách không thiện và nhân cách thiện
đều có mặt trong cùng một cá nhân. Thiên và không thiện là hai đặc tính của
nhân cách: có gây trở ngại cho cá nhân và cho người khác hay không. Như vậy,
thiện hay ác là tính chất của thái độ, cảm xúc, hành động, tâm lý và tư duy của
con người nói chung.
Phật Giáo với lý
thuyết về A lai da còn quan niệm về nhân cách thứ ba là vô ký (không thiện
không ác). Điều này rất quan trọng đối với giáo dục nhân cách, chúng ta sẽ bàn
tiếp sau này.
Nhưng đối với một
cá nhân là đối tượng của giáo dục thì nhân cách riêng của cá nhân ấy mới là
quan trọng. “Bá dân bá tánh” (trăm người là trăm tánh), hẳn là rất đúng trong ý
nghĩa rằng mỗi người có một nhân cách riêng, không có hai nhân cách hoàn toàn
giống nhau.
Tại sao như vậy?
Ta hãy trở lại
tập hợp ngũ uẩn. Do tập khí từ các đời quá khứ và đặc biệt do hoàn cảnh nhân
duyên hiện tại, trong đó yếu tố quan trọng nhất là giáo dục mà chức năng vận
hành của từng thành tố và “cấu trúc” của 5 thành tố của mỗi người không giống
nhau. Việc không giống nhau của 5 uẩn này khiến cho mỗi người có một nhân cách
riêng.
3. Giáo dục nhân
cách:
Nhân cách, nói
cho đến chỗ tuyệt đối là vô ngã. Giáo dục nhân cách là làm sao chuyển cái giả
ngã thành ra vô ngã.
Cái giả ngã, cái
ta hay nhân cách mà một người tự ý thức về mình là cái không thật, cái gây đau
khổ. Cái gọi là “ta” chỉ là do duyên khởi, do tập hợp 5 uẩn mà tạo thành.
Theo Duy thức
học, cái chấp ngã là chức năng của Mạt na, Mạt na nhìn vào A lại da mà cho rằng
A lại da là ngã, là ta. Vậy, “ngã” được hình thành do nội dung mà A lại da chứa
đựng và sự chấp ngã của Mạt na. Để tiến tới vô ngã, một người phải phá bỏ chấp
trước và mặt khác không làm phong phú cái nội dung ngã của A lại da bằng cách
điều phục thân, khẩu, ý trong hành động, đồng thời tạo thêm và phát triển các
chủng tử thiện, hạn chế sự hiện hành của các chủng tử ác. Để đạt mục tiêu ấy
thiền định là phương pháp tốt nhất. Thiền định giúp ta buông bỏ phân biệt chấp
trước, phát triển trí tuệ để nhìn rõ nguyên nhân của khổ đau.
Giáo dục giúp con
người phát triển trí tuệ để thấy rõ ngũ uẩn là không (có tự thể) là vô ngã.
Phật Giáo đề cao 6 Ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí tuệ. Bốn đức của Ba la mật là khổ, không, vô thường và vô ngã.
Chính việc thực hành lục Ba la mật là một phương pháp rèn luyện nhân cách tuyệt
vời, là phương cách trị liệu hữu hiệu nhất đối với những bệnh nhân cách
(personality disease) mà các nhà phân tích nhân cách hiện đại đã phân tích và
tìm cách chữa trị.
Ngoài ra, nhờ
việc phân tích ngũ uẩn và áp dụng giáo lý duyên khởi nền giáo dục nhân cách của
Phật Giáo có thể xếp loại nhân cách và phương pháp giáo dục, trị liệu cho từng
nhân cách: Người có dục tham nặng thì cần tu tập quán vô thường, vô ngã, và
thực hành bố thí. Người nặng sân hận thì cần thực hành từ vô lượng tâm.
III. Kết luận:
Như vậy, cái nhân
cách tốt đẹp nhất là cái nhân cách vô ngã. Nhân cách càng gần với tinh thần vô
ngã thì càng tạo hạnh phúc cho cá nhân mang nhân cách ấy và góp phần tạo hạnh
phúc cho những người chung quanh.
Mọi khổ đau đều
là những thể hiện của tham, sân và si. Ngã chấp là động cơ vận hành của tam độc
này: càng sống theo tinh thần vô ngã thì càng được giải, tức là càng giảm thiểu
khổ đau. Sự thật này là kinh nghiệm sống hằng ngày mà người ta lại không để ý
đến. Giáo dục phải nhắc nhở cho người ta, phải khuyến khích người ta thực hiện
tinh thần vô ngã. Như thế, nói một cách khác, giáo dục, nhất là giáo dục nhân
cách, là phải xem sự hướng đến một đời sống vô ngã là mục đích tối hậu.
Những trường hợp
bất thường về nhân cách mà các nhà chuyên môn gọi là bệnh nhân cách chính là
bệnh chấp ngã, chấp ngã trong các lĩnh vực khác nhau về ý nghĩ, về tâm lý, về
ứng xử, hành động. Giáo dục Phật Giáo có thể điều chỉnh, chữa trị những trường
hợp bất thường ấy. Con đường giáo dục theo tinh thần vô ngã chính là con đường
của giáo dục Phật Giáo vậy.
XUÂN NHẬT TỨC SỰ (^)
Giáo sư Lê Mạnh
Thát
Xuân nhật tức sự
là một bài thơ hay, được các thi tuyển xưa chép vào phần thơ của Huyền Quang
(1), do đó được nhiều người dẫn và bình luận (2). Có điều trong thơ văn chữ Hán
của nước ta, đặc biệt trong thơ văn chữ Hán của các nhà sư Việt Nam có lẫn rất
nhiều bài thơ của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong số 40 bài thơ do Lê Quý Đôn chép
lại trong Kiến Vân Tiểu Lục và nói là của Thiền sư Hương Hải, thì có đến
32 bài là của tác giả Trung Quốc đời Tống (3) mà ta có thể tìm lại trong các
sách Trung Quốc hiện còn. Trường hợp Chân Nguyên cũng thế (4). Thậm chí những
tác giả sống gần thời với ta như Viên Thành (1879-1928) cũng có những bài thơ
chữ Hán của Trung Quốc chép trong thi tập của mình, mà những người sau do thiếu
cẩn thận đã cho là của chính Viên Thành (5). Vậy Xuân nhật tức sự có ở
trong trường hợp nhầm lẫn, gán ghép đó không?
Những ai có dịp
đọc các bộ chính sử của Thiền Tông Trung Quốc, thì biết ngay Xuân nhật tức
sự là một bài thơ của Thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203). Người đầu tiên
ghi lại tiểu sử và bài thơ nói trên của Trung Nhân không phải ai khác mà là học
trò của ông, tức Thiền sư Lôi Am Chính Thọ (1145-1208), tác giả bộ Gia Thái
phổ đăng lục, là bộ lịch sử Thiền Tông viết trong khoảng Gia Thái đời Tống
Ninh Tông (1201-1204). Chính trong Gia Thái phổ đăng lục 15, tờ 117c 14-d12 mà
cuộc đời và tác phẩm của Trung Nhân được ghi lại như sau:
“Thiền sư Ảo
Đường Trung Nhân chùa Linh Phong ở Nhạn Sơn, Ôn Châu là người Lạc Dương. Thuở
nhỏ xuất gia ở viện Phụng Tiên tại Đông Kinh. Trong khoảng đầu năm Tuyên Hòa
(1119-1125), được cấp điệp ở viện Khánh Cơ, bèn xuống tóc thọ giới Cụ túc, sau
đó lui tới Sở dịch kinh Tam tạng, nghiên cứu khắp hết kinh luận, nhưng đặc biệt
đối với Thiền Tông thì chưa tin. Đến khi Viên Ngộ (Khắc Cần, 1063-1135) được
chiếu vua mời tới ở chùa Thiên Ninh, sáng sớm bèn yết kiến. Ngộ khi ấy mới vì
chúng nhập thất. Sư vừa thấy liền kính phục, hớn hở bước tới mặt. Ngộ nói: “Dựa
kinh giải nghĩa ba đời oan Phật, rời kinh một chữ tức giống thuyết ma, nói
mau!”. Sư đang cách trả lời thì Ngộ vung tay đánh vào miệng, nhân thế làm gãy
một răng. Sư tức thì đại ngộ. Do thế, sư ở lại Thiên Ninh. Từ đó, thầy trò
tương hợp, hỏi đáp không ngừng. Từ khi (nhà Tống) vượt về phương Nam, trong năm
đầu Long Hưng (1163-1164) bèn lúc đầu mở trường giảng ở Đại giác, rồi dời chùa
về Trung Thiên Trúc, rồi lại dời tới chùa Linh Phong. Sư thượng đường nói:
“Chín chục tia Xuân quá nửa đêm,
Vun hoa thiên khí chính dung hòa.
Hải đường cành ấy oanh ríu rít,
Đạo với dòng đời thấy được ha?”
Nhưng tuy thế,
khi đã rõ thanh rõ sắc thì một câu hỏi, làm sao nói ra?
“Đàm vàng ngựa hí đất thơm cỏ
Lầu ngọc người say trời hạnh hoa”
Sư thượng đường
nêu chuyện con chó không có tính Phật, nói:
Đôi tám giai nhân thêu chậm dân
Tử kinh hoa rộ hót hoàng anh
Đáng yêu vô hạn thương xuân ý
Dồn ở dừng kim chẳng nói năng.
Nguyên văn chữ
Hán:
Nhị bát giai nhân thích tú trì,
Tứ kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
Khả lân vô hạn thương Xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thi.
Ngày 8 tháng 4
năm Thuần Hy, Giáp Ngọ (1174), vua Hiển Tông xuống chiếu mời vào, ban cho chỗ
ngồi để thuyết pháp. Vua nêu chuyện không cùng với muôn pháp làm bè bạn, để xin
sư niêm đề. Sư niêm xong làm bài tụng:
Quả cân lấy khởi làm đầu,
Thôi đừng nói dài lâu.
Lưng đeo tiền mười vạn,
Cỡi hạc lên Dương Châu.
Trong năm Quí Hợi
(1203), sư thượng đường từ biệt mọi người mà mất.
Tiểu sử trên, sau
này Ngũ đăng hội nguyên 19, tờ 383a9-b6 do Đại Xuyên Phổ Tế viết trong
khoảng 1228-1233 và Tục truyền đăng lục 28, tờ 657b4-22 do Viên Cực Cư
Đình (?-1404) hoàn thành từ khoảng 1396 trở đi, đã sao y nguyên văn, còn Thiền
tông chính mạch 19, tờ 31a 13-14 của Như Cẩn viết xong năm 1489 thì lược
bớt nhưng còn giữ lại bài thơ “Nhị bát giai nhân ...”, trong khi Nam
Tống Nguyên Minh Thiền lâm Tăng bảo truyện 4, tờ 331a3-c2 của hai thầy trò
Tự Dung và Tĩnh Lôi viết xong vào năm 1664 thì không còn thấy chép bài thơ ấy
nữa.
Thế là rõ ràng
Bài thơ với nhan đề đặt thêm Xuân nhất tức sự không phải của Huyền
Quang, một nhà sư Việt Nam sống giữa những năm 1254-1334, mà là của Ảo Đường
Trung Nhân (-1203), một Thiền sư đời Tống. Nó đã được chép vào những sách vở,
chủ yếu là Gia Thái phổ đăng lục và Ngũ đăng hội nguyên, ra đời
trước khi Huyền Quang có mặt trên cõi thế.
Cũng cần nói
thêm, Phổ Hội có chép một bài thơ xuất nhập với bài thơ của Trung Nhân trong Thiền
tông tụng cố liên châu thông tập và ghi là của Nam Tẩu Sực. Bài thơ đó như
sau:
Nhật noãn giai nhân thích tú trì,
Tử kinh chi thượng chuyển hoàng ly.
Dục tri vô hạn thương Xuân ý,
Tận tại đình châm bất ngữ thi.
Thiền tông tụng
cố liên châu thông tập là một tác phẩm do Phổ Hội chỉnh lý và bổ sung. Thiền
tông tụng cố liên châu tập của Pháp Ứng hoàn thành giữa những năm 1295-1418
và được khắc bản vào năm 1318. Bài thơ nói trên của Nam Tẩu Sực cho thấy, ngay
ở Trung Quốc thời Huyền Quang đã có một dị bản của bài thơ Trung Nhân, chứng tỏ
nó lưu hành khá rộng rãi.
Chúng tôi có ý
giám định về mặt văn bản học toàn bộ thơ văn Huyền Quang hiện biết đã rồi mới
công bố kết quả cho đầy đủ. Song vì bạn Nguyễn Phương Chi đã có nhã ý nhắc đến
chúng tôi khi đề cập tới bài thơ Trung Nhân nói trên (6) nên chúng tôi công bố
trước tư liệu này, trong khi tiến hành một công trình nghiên cứu nghiêm túc hơn
về toàn bộ thơ văn được biết dưới tên Huyền Quang về mặt văn bản học.
Chú thích:
1. Chẳng hạn Việt
âm thi tập, soạn xong 1459, bản in hiện còn 1729.
2. Đặng Thai Mai:
Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học trong Thơ văn Lý-Trần I. NXB Khoa học
xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 44. Đinh Gia Khánh và nnk. Văn học Việt Nam thế kỷ
XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,
1978, tr. 67, Tổng tập văn học Việt Nam I, NXB Khoa học xã hội, 1980, tr. 104.
3. Xem Lê Mạnh
Thát: Thơ văn Thiên sư Minh Châu Hương Hải, Viện Phật học Vạn Hạnh, TP. HCM,
1980 (bản đánh máy). Đấy là chưa kể những câu ngữ lục và một số bài thơ dôi ra
trong Hương Hải Thiền sư ngữ lục, bản in năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747).
4. Xem Lê Mạnh
Thát: Chân Nguyên Thiền sư toàn tập III, Viện Phật học Vạn Hạnh, TP. HCM, 1979
(bản đánh máy). Thí dụ bài:
Hữu thuyết giai thành báng,
Hữu thuyết giai thành báng,
Vô ngôn diệc bất dung
Vị quân thông nhất tuyến,
Nhật xuất lĩnh đầu hồng
Trong Ngô đạo
nhân duyên và Kiến tinh thành Phật của Chân Nguyên, thực sự là một bài thơ của
dã Phụ đạo xuyên đời Tống.
5. Chẳn hạn bà
Sơn cư ngẫu tác trong Lược ước tùng sao, tờ 54b.
6. Nguyễn Phương
Chi: Huyền Quang nhà sư thi sĩ Tạp chí văn học số 3 năm 1982, tr. 79.
Hòa thượng Thích
Trí Quảng
Tôi đã tham gia
vào công tác giảng dạy tại Học Viện Phật Việt Nam từ khóa I cho đến nay là khóa
IV sắp sửa tốt nghiệp. Nhớ lại thời gian tôi bắt đầu dạy thì lúc ấy trường mới
được thành lập với tên là Trường Cao Cấp Phật học, nay được đổi tên là Học Viện
Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Đặc biệt lớp học
của khóa IV (1997-2001), cả Tăng Ni đều học Kinh Đại Bảo Tích với tôi, vì bận
nhiều Phật sự, nên thời gian tôi giảng dạy cho Tăng Ni khóa học này rất ít,
không được bao nhiêu. Tuy nhiên, tôi nhận thấy Tăng Ni đều tiếp thu tốt ý nghĩa
tinh ba của bộ Kinh mà tôi đã hết lòng truyền trao, và kết quả là anh em đã làm
bài thi cuối năm đều đạt yêu cầu.
Theo tôi, mặc dù
chúng ta chưa hài lòng lắm, nhưng Tăng Ni sinh của các khóa học trước, cũng học
hành có kết quả tốt và sau đó một số anh em cũng đã thành tựu được những Phật
sự đáng kể. Có nhiều người bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ ở nước ngoài như
Nhật Bản, Ấn Độ v.v...
Riêng khóa IV, có
nhiều triển vọng hơn. Thật vậy, tôi vui mừng khi thấy Tăng Ni sinh khóa này học
hành đạt được trình độ khả quan hơn và đồng đều hơn. Điều đó khiến chúng ta tin
tưởng rằng chắc chắn trong tương lai Phật Giáo Việt Nam sẽ có được nhiều tu sĩ
tài giỏi làm rường cột cho sự tồn tại và phát triển đạo pháp của nước nhà.
Cầu nguyện chư
Phật gia hộ cho các Tăng Ni sinh thành tựu viên mãn trên bước đường tự giác,
giác tha, xứng đáng với vai trò thừa kế các bậc tôn đức, làm rạng danh Phật
Giáo Việt Nam.
Cầu nguyện cho
Học Viện Phật Giáo Việt Nam luôn luôn đào tạo được những tu sĩ tài đức gánh vác
được Phật sự thành công, đưa Phật Giáo nước nhà tiến lên đỉnh cao trong thiên
niên kỷ mới.
CS. Tống Hồ Cầm
Phó Viện trưởng
Học Viện
Phật Giáo
Việt Nam tại Saigon.
Thế là bốn năm
học khóa IV Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon của quý vị Tăng Ni sinh viên
đã đến kỳ hoàn mãn.
Hội đồng Điều
hành Học Viện, trên hết là Hòa thượng Thích Minh Châu kính mến, cộng sự cùng
với quý chức vị thành viên của Hội đồng, quý thân giáo sư, quý nhân sự văn
phòng, quý Ban Bảo Trợ của Học Viện, đều đã hoàn thành trách nhiệm theo thiên
chức của mỗi người gắn bó vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo Tăng Ni tài đức xuất
phát từ định hướng hệ thống tổ chức của Phật Giáo Việt Nam chúng ta.
Tới đây, ngày 15
tháng 6 năm 2001 cử hành lễ tốt nghiệp chính thức cho quý sinh viên Tăng Ni
chúng ta và được công nhận đây là nấc thang học vị đại học đầu tiên, vào ngày
mãn khóa.
Với bằng cấp Cử
nhân Phật học, quý học Tăng, học Ni các khóa trước đây có điều kiện cầu học
thêm, được giúp đỡ hội đủ nhiều mặt để du học, đã lần lượt tốt nghiệp với các
học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ Phật học. Điều này chứng tỏ sự tự quyết tâm toàn tâm
toàn ý thật đáng biểu dương, ca ngợi.
Thực ra với bất
cứ học vị nào, nếu có thời gian vả điều kiện học tiếp, học tới nữa, tất nhiên
chóng chày cũng đều sẽ thành đạt, nhưng sau đó phải có cống hiến phục vụ hiệu
quả thì chức vị mới trở thành hiện thực, đồng thời danh vị và hiện thân thực
học thực tu cao quý đó, cũng tất nhiên là điều thiết tha kỳ vọng kế thừa, tiếp
nối vào tổ chức Phật Giáo chúng ta.
Những năm tháng
trôi qua, với đạo tình và có duyên lành thân gần trao đổi bổ ích cho nhau với
quý Tăng Ni sinh của khóa IV này cũng như các khóa trước, chúng tôi chí thành
tin tưởng quý vị lấy trí tuệ làm sự nghiệp, nối chí Thầy Tổ, sáng giá là sứ giả
Như Lai, sẽ dày công phát huy thêm những trang sử huy hoàng cho Đạo pháp, cho
dân tộc và vinh quang đất nước chúng ta.
Gs. Trần Tuấn Mẫn
Suốt 20 thế kỷ từ
khi du nhập vào Việt Nam, Phật Giáo đã bắt rễ thâm sâu vào mảnh đất này, đóng
một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trải qua
những thăng trầm trong lịch sử của dân tộc.
Sau 1,000 năm bị
người Trung Quốc đô hộ, một thời kỳ độc lập bắt đầu với cuộc chiến thắng vẻ
vang quân xâm lược Nam Hán vào năm 939. Đây là một thời kỳ vàng son của Phật
Giáo Việt Nam. Trong hơn 400 năm dưới các triều đại Đinh (968-980), Lê
(980-1009), Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400), các nhà nước đều ủng hộ Phật
Giáo như một quốc giáo và được Phật Giáo tích cực ủng hộ. Do đó mà đất nước trở
nên hùng cường, thịnh vượng và nhân dân hiền thiện, hạnh phúc, với những thành
tựu tốt đẹp nhất về quân sự và văn hóa trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam.
Nhiều vị Tăng tài đức được mời làm Quốc sư. Vua, đại thần, tướng lãnh ... đều
là những tín đồ và học giả Phật Giáo. Nhiều người sau khi hoàn thành việc nước,
đã từ bỏ gia đình, tài sản, để tu hành tại một ngôi chùa hẻo lánh. Vua Lý Thái
Tổ, người sáng lập Triều Lý vốn là một Sa di, kế vị của ông là Lý Thánh Tông,
cũng là một nhà Phật học. Vua Trần Thái Tông là một Thiền sư, tác giả của nhiều
bộ sách Phật học giá trị, sau khi lãnh đạo nhân dân chiến thắng lẫy lừng các
đạo quân Mông Cổ, đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông, từ bỏ ngai vàng mà
đến núi Yên Tử tu tập và sáng lập Thiền phái đầu tiên tại Việt Nam, tức Thiền
phái Trúc Lâm.
Những dấu tích
văn hóa và tư tưởng Phật Giáo Việt Nam không chỉ thể hiện trong các tác phẩm do
các tu sĩ và học giả Phật học biên soạn tạo thành một nền văn học phong phú mà
còn thể hiện trong các sinh hoạt hàng ngày, nhất là trong các công trình kiến
trúc, điêu khắc, trang trí. Các nghệ nhân và các nhà kiến trúc Phật tử đã ghi
khắc niềm tin của mình trong xây dựng lăng mộ, chùa chiền, cung điện, trong
việc chạm khắc bia tượng và trang hoàng nhà cửa. Phật Giáo thâm nhập vào quần
chúng nhân dân Việt Nam qua các chuyện thần kỳ, ca dao tục ngữ, ca trù dân gian
... truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhiều đại tác phẩm trong văn học
Việt Nam do các Nho gia viết như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung Oán Ngâm Khúc,
(Nguyễn Gia Thiều), Bạch Vân Thi (Nguyễn Bỉnh Khiêm) v.v... cũng chứa đựng tư
tưởng Phật Giáo. Có thể nói, văn hóa Việt Nam thấm nhuần màu sắc Phật Giáo.
II. Xã hội Việt
Nam ngày nay và chức năng của tôn giáo:
Khi chiến tranh
chấm dứt vào năm 1975, chính quyền và nhân dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều
khó khăn trong một giai đoạn chuyển tiếp 15 năm do bởi những hậu quả của cuộc
chiến tranh lâu dài vì độc lập tự do và thống nhất đất nước và do những khác
biệt giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam về cơ cấu chính trị, xã hội, kinh tế và cả
về lối sinh hoạt, suy nghĩ. Nhưng rồi tình trạng này dần dần trở nên tốt đẹp
hơn và đời sống xã hội ngày càng được ổn định.
Chính sách mở cửa
của nhà nước Việt Nam rõ ràng đã giúp đất nước tiến tới một bước ngoặc trong sự
phát triển kinh tế. Tuy nhiên, khi chuyển dần sang nền kinh tế thị trường,
trong xã hội đã xuất hiện một số điều đáng lưu ý, chẳng hạn đó là sự xói mòn
nền tảng đạo đức của xã hội. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đã phải đối mặt với
những nền văn hóa ngoại lai, những lối sống mới và cuối cùng chấp nhận chúng mà
không hề đắn đo cân nhắc. Một tảng lớp xã hội mới gồm những người giàu, sản
phẩm của kinh tế thị trường, của tham nhũng, bất chính đã khởi sự hình thành.
Trong khi đó, dù có những thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế, nghèo khổ,
thậm chí đói khát và lạc hậu vẫn tồn tại ở một số vùng xa ...
Hiện nay một số
người bảo rằng do chính sách mở cửa, xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng bởi hệ thống
kinh tế tư bản và những xu hướng mới về chính trị, xã hội văn hóa, điều này đòi
hỏi một sự thay đổi chế độ chính trị. Tôi không phải là một nhà chính trị nhưng
tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã và đang được những kết quả rất tốt đẹp nhờ chính
sách mở cửa từ hai thập niên vừa qua mà chẳng cần có một thay đổi chế độ chính
trị nào cả. Theo tôi, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện cho được một sự cân
bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển đạo đức cho xã hội Việt Nam ngày
nay.
Chính quyền không
ngừng kêu gọi nhân dân gìn giữ đạo đức, văn hóa truyền thống và tôn trọng tinh
thần tuân thủ pháp luật, nhưng số tội phạm vẫn gia tăng liên tục, gây nhiều rối
ren cho xã hội.
Trước tình hình
suy thoái đạo đức này, tôn giáo phải tham gia chữa trị căn bệnh của xã hội bằng
cách thiết lập một trật tự đạo đức. Cả chính quyền lẫn tôn giáo đều hứa hẹn
hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, lời hứa về hạnh phúc của tôn giáo thì hấp
dẫn hơn vì người vẫn bảo rằng hạnh phúc do tu tập thì tuyệt đối và vĩnh cữu.
Chỉ có tôn giáo mới có thể thực sự khắc sâu vào tâm thức người ta một niềm tin
sâu sắc, mãnh liệt, một tin tưởng vào sự tuyệt đối, vào năng lực tối thượng. Niềm
tin tưởng này hành động, phán đoán và chẳng dính dáng gì đến luật pháp và sự
thưởng phạt của đời thường.
Tôn giáo và đạo
đức sẽ có khả năng đương đầu với sức mạnh kinh tế và chủ nghĩa tư bản hay
không? Câu hỏi này đã được nêu ra ở nhiều nước đã phát triển hay đang phát
triển, và câu trả lời là “Vâng, sẽ có khả năng”.
Điều quan trọng
là phải có một sự hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền và tôn giáo. Chính quyền
phải ủng hộ tôn giáo trong những hoạt động vì hạnh phúc của số đông và vì sự
phát triển của tôn giáo.
III. Chức năng
của Phật Giáo tại Việt Nam ngày nay:
Chấm dứt chiến tranh vào năm 1975, mở ra một kỷ nguyên mới của nước CHXHCNVN. Trong bối cảnh chính trị này, một cuộc vận động được phát khởi nhằm thống nhất các tổ chức và hệ phái Phật Giáo ở hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Vào ngày 06 tháng 11 năm 1981, một Đại hội được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của 165 đại biểu, soạn thảo một bản hiến chương, theo đó Giáo hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho toàn thể Tăng Ni và Phật tử tại Việt Nam. Đại hội cũng đưa ra một chương trình hành động cho Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, gồm các điểm sau:
Chấm dứt chiến tranh vào năm 1975, mở ra một kỷ nguyên mới của nước CHXHCNVN. Trong bối cảnh chính trị này, một cuộc vận động được phát khởi nhằm thống nhất các tổ chức và hệ phái Phật Giáo ở hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Vào ngày 06 tháng 11 năm 1981, một Đại hội được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của 165 đại biểu, soạn thảo một bản hiến chương, theo đó Giáo hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho toàn thể Tăng Ni và Phật tử tại Việt Nam. Đại hội cũng đưa ra một chương trình hành động cho Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, gồm các điểm sau:
1. Thực hiện sự
hợp tác hòa hợp dân tộc giữa các hệ phái Phật Giáo, giữa Tăng Ni Phật tử;
2. Truyền bá
Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật Giáo;
3. Thiết lập một
hệ thống giáo dục cho Tăng Ni và một lối sống đúng đắn cho các Phật tử;
4. Tăng cường
truyền thống yêu nước của Phật Giáo Việt Nam, mối liên hệ gắn bó của Phật Giáo
với nhân dân Việt Nam và sự đóng góp tích cực của Phật Giáo vào công cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc;
5. Ổn định kinh
tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh hoạt của Tăng ni và đóng góp tạo phồn
vinh cho đất nước;
6. Tăng cường mối
liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ chức Phật Giáo trên thế giới, tham gia
xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại.
Thật khó có thể
miêu tả hết những thành tựu nhiều mặt của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam suốt gần
20 năm qua kể từ ngày Giáo hội được thành lập. Ở đây tôi chỉ có thể nêu ra một
số nét. Hiện nay, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam lãnh đạo và tổ chức tất cả các
hoạt động Phật sự của khoảng 30,000 Tăng Ni trong 15,000 tự viện và 40 triệu
Phật tử trong toàn nước. Bên cạnh Giáo hội Trung ương, có 44 tỉnh, thành hội
Phật Giáo. Hội đồng Trị sự Giáo hội Trung ương gồm 9 Ban Ngành Viện chịu trách
nhiệm về những mặt hoạt động khác nhau: đó là các ban ngành: Tăng sự, Giáo dục
Tăng Ni, Hoằng Pháp, Văn hóa, Nghi lễ, Hướng dẫn Phật tử, Kinh tế nhà chùa, Từ
thiện xã hội, Phật Giáo quốc tế và Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. Mỗi ban
ngành đều có nhân sự và trụ sở tại mỗi tỉnh thành. Ba Học Viện Phật Giáo Việt
Nam và 26 trường Cơ bản Phật học cùng nhiều khóa chuyên môn ngắn hạn hay dài
hạn, đang đảm nhiệm giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Hơn 100 Tăng Ni sinh tốt
nghiệp đang du học tại các đại học nổi tiếng ở nước ngoài. Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam đã tập hợp, dịch thuật và xuất bản 27 tập kinh Pàli, và Hán ngữ
nhằm hình thành một bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam cho Tăng Ni, Phật tử, và các nhà
Phật học Việt Nam. Trên toàn nước, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã xây dựng 25
bệnh viện miễn phí, 655 phòng phát thuốc, 196 lớp học tình thương cho trẻ em
đường phố, 116 nhà từ thiện. Số sách báo Phật Giáo đủ loại cứ tăng dần mỗi năm
...
Nói chung, Phật
Giáo Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng trong việc tham gia phát
triển đất nước. Bây giờ tôi xin trình bày vắn tắt một số đặc trưng của Đạo đức
học Phật Giáo và một số nổ lực của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam nhằm phổ biến
những đặc trưng ấy trong quần chúng.
Theo Đạo đức học
Phật Giáo, ba gốc rễ tệ hại gây đau khổ cho cuộc đời là tham, sân, và si. Bạo
lực, chiến tranh, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng và mọi
xấu ác đều là những biểu hiện của ba căn bản xấu xa ấy. Phật Giáo giảng dạy và
dẫn dắt người ta đến sự tiêu trừ ba thứ độc dược ấy. Học thuyết về Nghiệp-Tái
sinh-Nhân quả ... khẳng định rằng con người phải chịu trách nhiệm về những hành
động của chính mình. Học thuyết Vô ngã khích lệ người ta quên mình và hành động
vì lợi ích của số đông.
Phật Giáo đặt ra
cho các tín đồ 5 giới để sống đời đạo đức. Đó là: không sát sinh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói xấu và không dùng chất gây say. Nếu mọi người,
Phật tử hay không phải Phật tử, tuân theo năm giới này thì đạo đức cá nhân sẽ
toàn thiện và cuộc đời sẽ trở nên an lành hạnh phúc.
Các Phật tử đến
chùa để lẽ Phật, hành thiền hay tham dự các khóa giáo lý. Thói quen này làm
phong phú đời sống tâm linh của họ và tạo sự tĩnh lặng, sáng suốt cho tâm họ.
Ban Hướng dẫn Phật tử là một bộ phận nhằm truyền bá đạo đức Phật Giáo. Ban
Hướng dẫn đã thành lập nhiều đoàn Phật tử gồm thanh niên, người lớn tuổi thâm
nhập quần chúng làm công tác xã hội và kêu gọi mỗi người giữ gìn nếp sống đạo
đức. “Gia đình Phật tử” là bộ phận nhằm hướng dẫn và huấn luyện các thanh thiếu
niên Phật tử. Đội ngũ này gồm 50,000 đoàn viên và 6,000 huynh trưởng được chia
thành từng nhóm gia đình sinh hoạt tại nhiều chùa ở miền Trung và miền Nam Việt
Nam. Ban Hoằng pháp tuyển chọn các Tăng Ni nhiều khả năng để huấn luyện qua các
khóa dài hạn và ngắn hạn được tổ chức tại nhiều tỉnh thành. Đội ngũ Giảng sư
được chuyên môn hóa này đảm nhiệm công việc giảng dạy Phật pháp, truyền bá đạo
đức Phật Giáo và nêu ra cho mọi người một lối sống tốt đẹp hơn.
IV. Kết luận:
Phật Giáo là một
tôn giáo của từ bi và trí tuệ. Nguyên tắc căn bản của Đạo đức học Phật Giáo là
mọi người cần phát triển lòng từ bi. Về mặt đạo đức, trí tuệ thật sự chính là
sự hiểu biết thực tiễn thể hiện thái độ và hành vi trong đời sống xã hội. Phật
Giáo luôn có thái độ cởi mở đối với các tôn giáo và các hệ ý thức. Phật Giáo chấp
nhận bất cứ hệ thống đạo đức, triết học hay chính trị nào miễn là hệ thống ấy
có thể giúp người ta đạt hạnh phúc và hoàn thành cứu cánh.
Trong tinh thần
hợp tác, đoàn kết và hòa hợp dân tộc, tôi tin chắc rằng Phật Giáo cũng như các
tôn giáo khác tại Việt Nam có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp
nhà nước và nhân dân Việt Nam ổn định xã hội và phát triển đất nước.
Thượng tọa Thích Thiện Nhơn
Tính chất giáo
dục, mục tiêu hiệu năng giáo dục đạo đức-nhân bản, đặt cơ sở giáo dục trên con
người, còn gọi là giáo dục tự thân và giáo dục tha nhân, tức là con người xã
hội. Do đó, trong khế kinh đức Phật dạy: “Con người là tối thắng, vì có hai khả
năng, một là chứng được đạo quả Bồ đề, hai là làm cho chánh báo và y báo trang
nghiêm” tức là làm cho tư tưởng, con người và hoàn cảnh xã hội chung quanh tốt
đẹp. (Kinh Anh Lạc).
Qua đó, có thể
nói, Giới-Định-Tuệ là một trong những phạm trù giáo dục nổi bật, làm hoàn thiện
con người tự thân và con người xã hội.
1. Giới-Định-Tuệ
là một hệ thống giáo dục đạo đức nhân bản đoạn ác - tu thiện:
Từ nhận thức khái
quát trên, ý nghĩa giáo dục của giới, là đoạn trừ các điều ác, thực hiện các
điều thiện, dựa trên cơ sở con người và 3 nghiệp - thân nghiệp, khẩu nghiệp và
ý nghiệp. Từ 5 giới của người tại gia, 10 giới của người xuất gia v.v... và
triển khai thành 10 hạnh lành - Không sát sanh, không trộm cướp, không dâm dục,
không nói dối, không nói ly gián, không nói thêm bớt, không nói lời ác độc,
không tham, không sân, và không tà kiến si mê.
Trên cơ sở tự
tánh từ bi, thực hành hạnh từ bỏ sát sanh, nhằm tôn trọng tính bình đẳng, phát
triển tâm từ bi và đoạn trừ nhân quả nghiệp báo trả quay trong vòng luân hồi
sanh tử. Như khế kinh nói: “Hận thù diệt hận thù. Đời này không thể được. Từ bi
diệt hận thù. Là Định luật thiên thu”.(PC-5). Từ đó, phát triển tình người,
tình thương yêu đồng loại chúng sinh, xây dựng và củng cố hòa bình cho nhân
loại trên hành tinh này. Như cổ đức nói: “Tất cả chúng sinh không nghiệp sát,
lo gì thế giới đầy đao binh, mọi nhà, mọi chốn đều tu thiện. Lo gì thiên hạ
chẳng thái bình”.
Qua tâm xả, thực
hành hạnh từ bỏ trộm cướp phát triển tâm bố thí, thực hành hạnh bố thí, tôn
trọng tài sản của người và xã hội, kiến tạo một xã hội công bằng, văn minh và
giàu mạnh. Đoạn trừ nhân quả trả vay lẫn nhau. Như cổ đức dạy: “Khoét vách đào
tường chi đã lâu. Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu. Của người dù có đời này
được. Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu”. (Thiền sư Trần Thái Tông).
Với tâm thanh
tịnh giải thoát, tu hạnh ly dục, ly tà hạnh và dâm dục, xây dựng hạnh phúc gia
đình, tôn trọng nhân phẩm con người, thành tựu phạm hạnh, và cuối cùng giải
thoát sinh tử luân hồi, như cổ đức dạy: “Đường sinh tử tu hành đã đoạn. Gốc ái
ân vi tế không còn. Đường giải thoát lâng lâng nhẹ bước. Vượt trần gian siêu
thoát ba đường”.
Y cứ chân như
thật tánh, thực hành hạnh không nói dối nhằm tôn trọng sự thật, xây dựng niềm
tin cho nhau trong các quan hệ song phương, từ gia đình đến xã hội và toàn cầu,
từ người lãnh đạo đến người thừa hành, đồng thời tạo cơ sở chính xác cho niềm
tin tuyệt đối. Như cổ đức nói: “Một lời nói chân thật thì được muôn người tin
dùng, một lời nói không chân thật, thì muôn việc không thành tựu”. (Nhất
ngôn trúng, vạn nhân dụng - Nhất ngôn bất trúng, vạn sự bất thành).
Bằng cơ sở tự
tánh hòa hiệp, thực hành hạnh không nói ly gián, nhằm tạo sự đoàn kết, hòa hợp
các phần tử với nhau, trong gia đình, xã hội, và thế giới, tạo thành một khối
thực thể bất khả phân, một sức mạnh tổng hợp, dung thông không gì lay chuyển
nổi. “Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Bằng tự tánh bình
đẳng, thực hành hạnh không nói thêm bớt, nhằm tôn trọng tính chính xác, không
tăng giảm của các pháp bình đẳng, tạo cơ sở chính xác cho công tác thông tin
đại chúng, báo, đài, và thông tấn xã v.v... Như người xưa nói: “Đừng ai vẽ rắn
thêm chân, chuyện không nói có, chuyện gần nói xa”.
Qua cơ sở tâm bi,
vô sân, nhẫn nhục, thực hành hạnh không nói lời ác độc, mà nói lời hòa nhã để
đoạn trừ tâm ác, tâm sân, tâm bất nhân, thanh tịnh khẩu nghiệp, tạo sự hoan hỷ
cảm thông, dung thứ, từ ái với nhau, qua ý nghĩ, việc làm, trong giấc ngủ,
trong các môi trường giao tế hàng ngày. Như ca dao Việt Nam có câu: “Chim khôn
kêu tiếng ráng rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Lời nói không mất
tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Trên ý nghĩa tâm
vô tham, đoạn trừ tâm tham, về tài, sắc, danh, thực, thủy - sắc, thanh, hương,
vị, xúc, pháp, hướng đến ly dục, ly tham, thiểu dục tri túc, phạm hạnh thanh
bạch, cuộc sống đơn giản, giải thoát, bảo vệ môi sinh, môi trường thiên nhiên
của con người và nhân loại. Như khế kinh nói: “Không mong cầu quốc độ, của cải
và vợ con. Không mong mình thành tựu. Với việc làm phi pháp. Người ấy thật trì
giới. Với trí tuệ thanh tịnh”. (PC-84).
Bằng tâm vô sân,
đoạn trừ tâm sân, phát triển tâm từ bi, nhẫn nhục, hạn chế, đoạn trừ sự tổn hại
chính mình và tha nhân, cũng như xã hội và thế giới, làm lợi lạc chúng sinh,
đem lại an vui, hòa bình, hạnh phúc cho mọi người. Như cổ đức dạy: “Lửa lòng đã
tắt từ lâu, tự tâm thanh tịnh một bầu thanh hương. Mưa từ, nước pháp, nhành
dương, chúng sinh lợi lạc bốn phương đượm nhuần”.
Lấy trí tuệ làm
thể, đoạn trừ tà kiến si mê, phát triển tâm sáng suốt, tức năng lực trí tuệ,
thấy đúng như thật về thân tâm và hoàn cảnh. Thấy rõ và tin lý nhân quả cũng
như chân lý tuyệt đối. Như khế kinh nói: “Phi chơn hiểu là phi chơn. Chơn thật
hiểu là chơn thật. Người hiểu đúng như thế, mau đạt được lý chơn”. (PC-13).
Như vậy, giáo dục
đạo đức ngang qua Giới, chính là đoạn trừ 10 pháp ác, thực hành 10 pháp thiện,
hay nói dễ hiểu hơn khi đoạn trừ 10 điều ác, chính là thành tựu 10 điều thiện
và thân khẩu ý thanh tịnh, thành tựu đoạn đức, trí đức và ân đức, Bồ đề xuất
hiện. Như cổ đức dạy: “Thân khẩu ý thanh tịnh gọi là Phật ra đời”. Hoàn thành
nhân cách tuyệt đối của con người.
2. Giới-Định-Tuệ
là giáo dục tâm lý, nhân bản - trong sạch hóa tự tâm - đưa đến trí tuệ:
Dẫn khởi từ thân
khẩu thanh tịnh, tức ly dục, ly bất thiện pháp, thành tựu giới. Do đó, giáo dục
về định là chế ngự và chặn đứng vọng niệm, đoạn trừ phiền não. Có thể nói,
trước nhất nhất điều hòa hơi thở, tâm ý chuyên nhất. Như khế kinh nói: “Mỗi khi
tọa thiền đếm hơi thở. Tâm ý chánh định tâm không động. Dù đất chấn động tâm
không động. Ấy là Thiền độ nên tu tập”. (Tăng 1).
Hoặc ngồi một nơi
thanh vắng, tư duy theo dõi quán sát tự tâm, đoạn trừ phiền não - thành tựu
chánh định luôn luôn làm chủ tự tâm, làm chủ tự thân và hoàn cảnh. Như đức Phật
dạy: “Ngồi yên nơi thanh vắng. lặng lẽ diệt điều ác. Đạm bạc được nhất tâm. Vui
ấy không ai bằng”. (PC -373- Bát nhã).
Đặc biệt, khi
tiếp xúc ngũ dục, lục trần, giữ tâm định tĩnh, bất động và trong mọi động tác
thường nhật luôn luôn làm chủ tự tâm, làm chủ tự thân và hoàn cảnh. Như cổ đức
dạy: “Thấy sắc không can dự. Nghe thinh không nhiễm thinh. Sắc thinh không
chướng ngại. Mau đến pháp vương thành”. Nhất là trông các oai nghi, động tác -
đi, đứng, ngồi, nằm, không rời đương niệm.
Trên cơ sở đoạn
trừ các phiền não, tức là đoạn trừ 5 triền cái, chứng 5 thiền chỉ và các trạng
thái thiền. Do đoạn trừ tham dục, trạo hối, thành tựu hỷ lạc. Do đoạn trừ sân
hận, tâm được định tĩnh nhất tâm, đoạn trừ thùy miên, nghi ngờ, nên thành tựu
giác quán (Tầm tứ) tức Huệẹ. Như trừ phiền não, điều phục các căn, chế ngự ác
pháp, bất thiện pháp, 3 nghiệp thanh tịnh, xa lìa ngũ dục, lục trần, tam độc
(tham, sân, si) thanh tịnh. (Kinh Niết Bàn).
Tóm lại, mục tiêu
giáo dục của Định là chặn đứng vọng tâm, không cho chạy theo ngũ dục, lục trần,
nhằm trong sạch hóa tự tâm, đoạn trừ phiền não, đạt được khinh an, hỷ lạc nhất
tâm, trí tuệ vô lậu phát sinh, làm cơ sở cho giải thoát, giác ngộ cứu cánh. Như
cổ đức dạy: “Trăng trong in khắp muôn dòng nước. Thông cõi tha hồ bốn gió rung.
Xưa mê nay tỉnh là như thế. Đạo cả sâu xa hiểu lòng”.
3. Giới-Định-Tuệ:
Một hệ thống Giáo dục đạo đức quán chiếu đoạn trừ lậu hoặc - chứng quả giải
thoát:
Bằng trí tuệ thân
chứng, dẫn đi từ Định, là mối quan hệ nhân quả tất yếu. Liên tục nhi tiến và
hợp lý. Qua đó, với trí tuệ vô lậu, trong sáng định tĩnh, quán sát thấy thân,
tâm và cảnh vật là vô thường, khổ và vô ngã. Như Khế kinh nói:
Tất cả các hành vô thường,
Tất cả các hành khổ đau,
Tất cả các pháp vô ngã,
Với tuệ quán thấy thế,’
Sẽ đoạn hết khổ đau.
Đường đưa đến thanh tịnh”.
(PC.227-229)
Về mặt nhân quả,
thiện ác với trí tuệ thanh tịnh quán thấy và hiểu rõ vấn đề. Như cổ đức dạy:
“Việc làm giả thật tự mình hay,
Họa phúc do mình chờ ai hỏi.
Quả báo cuối cùng rồi phải đến,
Chẳng qua đến sớm hay đến chày”.
Về mặt chủ thể
nhận thức, giáo dục trí tuệ, tạo cho con người có 5 sự thấy: Chánh kiến: Thấy
đúng như thật sự vật khách quan - Biên kiến: Thấy một cách phổ quát - Thứ đệ
kiến: Thấy một cách trình tự, quy luật diễn biến nhất định, có hệ thống và khoa
học - Biệt kiến: Thấy được cái dị biệt trong cái đồng nhất - Tổng kiến: Thấy
được cái đồng nhất trong cái dị biệt. (Kinh Niết Bàn).
Trên cơ sở giải
thoát cứu cánh, bằng trí tuệ thanh tịnh, thấy lý Tứ đế - Khổ, Tập, Diệt, Đạo,
đoạn trừ hết các lậu hoặc dục lậu, vô minh lậu, thành tựu Tam minh: Thiên nhãn
minh, Túc mạng minh, và Lậu tận minh, chứng quả giải thoát tâm giải thoát, trí
giải thoát, Niết Bàn an lạc; Như khế kinh nói: những vị A la hán đã đoạn trừ
hết lậu hoặc hoặc uống ăn vừa biết đủ - tự tại nơi hành xử không, Vô thường, Vô
nguyện. Như chim giữa hư không tìm dấu chân không thấy. (PC-93).
Tóm lại, ý nghĩa
giáo dục Phật Giáo ngang qua Giới-Định-Tuệ là nhằm cải tạo, xây dựng và huấn luyện
tự thân, tự tâm tất cả những người đệ tử Phật và những nhà giáo dục đạo đức
chân chính, cũng như tất cả mọi thời đại, nhằm đạt được thanh tịnh an lạc, giải
thoát tự thân, tự tâm và giải thoát cứu cánh trong cuộc sống và tại thế gian
này, đồng thời xây dựng một nhân sinh quan, một thế giới quan an lạc, hạnh phúc
thật sự.
Bằng khả năng
hành trì liên tục của con người và sức người, nổ lực tự thân và vươn lên, đoạn
trừ các điều ác, thực hành các điều thiện, trong sạch hóa tự tâm, được định
tĩnh làm chủ bản tâm, tự thân và hoàn cảnh, đoạn trừ lậu hoặc thành tựu trí tuệ
giải thoát cứu cánh, ngang qua phương thức giáo dục Giới-Định-Tuệ.
Hơn bao giờ hết,
Giới-Định-Tuệ là một hệ thống giáo dục đạo đức, tâm lý trong sáng, thực tế và
toàn bích, hổ tương tác động lẫn nhau. Nếu đứng ở phạm trù giáo dục tác động
cùng chiều, tức từ nhân đến quả thì Giới là nhân tố đầu tiên dẫn đến Định và từ
Định phát sinh Trí Tuệ. Nếu ở phạm vi giáo dục tác động nghịch chiều, thì chính
Trí Tuệ làm cho Giới và Định được thanh tịnh và thành tựu. Nếu đứng ở phạm vi
giáo dục tác động đồng thời, thì trong Giới đã có đầy đủ Định và Huệ, trong
Định đã có đầy đủ Giới và Huệ và trong Huệ đã có đầy đủ Giới và Định. Như Khế
kinh nói: “Nơi nào có trí huệ thì nơi đó có giới luật. Nơi nào có giới luật thì
nơi đó có trí huệ và cũng có nghĩa là đã có thiền định”.
Thượng Tọa Thích
Phước Sơn
Trong lời phàm lệ
của quyển Tứ Phần Giới Bổn Như Thích. Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: “Tam
thế chư Phật câu thuyết Kinh Luật Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng
hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỳ kheo độc trì, như vương bí
tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại
giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận”. Dịch nghĩa:
“Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh luật Luận. Hai tạng Kinh Luận
chung cả cho tại gia lẫn xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỳ Kheo gìn
giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến, Nếu Sa di,
bạch y mà xem trước thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với
tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận”.
Ý kiến này có lẽ
bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển luật Sa di: “Bất đắc
đạo thính Đại sa môn thuyết giới”. (Không được lén nghe Bậc Đại sa môn thuyết
giới).
Thật ra, câu cảnh
cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi Tỳ kheo
tụng giới, vì nghe lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp
nhân của một vị Tăng thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt
chính yếu của Đại Tăng như vác việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v... Nếu người chưa
thọ Cụ túc mà khoác cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỳ kheo, tham dự các pháp yết
ma, bố tát, tự tứ, thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về
sau không được thọ Đại giới, tức giới Tỳ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền
phương tiện (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi Tăng chúng: “Người nào
chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?, và khi được xác nhận trong Tăng không có
người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma. Như
vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ
giới Cụ túc xem giới pháp của Tỳ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự
bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một
người bạch y tham dự, sau đó, một Tỳ kheo phạm tội, người bạch y này liền hạch
tội Tỳ kheo. Các Tỳ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: “Từ nay trở đi
không nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát” (Ngũ Phần Luật, Đ.22. tr.123a).
Phát xuất từ lời
Phật dạy trên mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỳ kheo
tụng giới, nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài
cổ vũ: “Nhược nhạo quáng lâm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư”. (Nếu muốn
hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng).
Và một đoạn khác
trong Luật Sa di, Ngài khuyến khích: “Tuy Tỳ kheo sự, Sa di đương dự tri chi”
(Tuy là việc của Tỳ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết
nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ
nhận như trường hợp của ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có
người đã luận giải, nêu ra ba lý do:
1. Nếu Sa di xem
trước giới luật Tỳ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn sẽ sanh tâm thối
thất, không dám thọ giới Cụ túc.
2. Nếu Sa di biết
giới luật Tỳ kheo, khi họ thấy các Tỳ kheo thọ giới rồi không giữ gìn nghiêm
túc, hủy phạm giới cấm, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỳ kheo, do đó sẽ
tổn phước, mất lợi ích.
3. Khi đã biết
trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí sẽ
sút giảm nên khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới
nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn, vì các lẽ: Thứ
nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết hay sao mà
thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối thất?. Thứ hai, lẽ nào những người xuất gia
lại quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, “hễ thấy Tỳ kheo phạm giới liền
sanh tâm khinh rẻ?”. Thứ ba, vấn đề giữ tứ đắc giới thể là do ba việc: “Giới sư
thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới tử chí thành”, chứ đâu phải nhờ giới
tử không biết trước giới luật mà đắc giới thế?”.
Quả thật lối lập
luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giáo pháp và giới luật. Ai cũng biết
ngài Quy Sơn (771-833) định nghĩa người xuất gia: “Phàm là người xuất gia là
mong cất bước đến chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục, vì
mục đích làm rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba
cõi”. Và các bậc cổ đức cũng đã nói: “Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát
hán, hà năng kham thủ?” (Trên đời này nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải
thoát, thì làm sao đảm đương nổi sứ mệnh xuất trần”?
Vả lại, Luật dạy,
vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì sáu căn
phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải là người háo tâm
xuất gia, có dũng khí khiên cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia
được. Chả thế mà ca dao ta có câu: “Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu”.
Đúng ra, vì nhờ
xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới là “phòng phi chi
ác”, là “thuyền bè đưa người qua bể khổ”, nên họ mới sanh tâm khát ngưỡng,
trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó
làm mà các Tỳ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm thêm cung
kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỳ kheo khi đã hiểu rằng mọi
người đều biết những giới luật mình đã thọ, thì càng phải nổ lực hộ trì không
dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê bình. Kinh nghiêm thực tế cho thấy các nước
Nam phương như Campuchia, Thái Lan v.v... mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỳ
kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ
trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và tìm
cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có
những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật
tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chận hành vi phi pháp
của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này
nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỳ kheo, các chúng
khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn cứ, không có cơ
sở và trái hẳn thực tế, vì trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di,
không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỳ kheo hết. Đành rằng
chỉ có các Tỳ kheo thọ 250 giới, và các Tỳ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận
tuân thủ giới pháp của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải
tuân thủ. Đó là nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thi, tìm hiểu với
thiện chí hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỳ kheo mà
không vi phạm bất cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội
đoàn nào đó kêu gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì
liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám,
bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc
chắn phải tìm hiểu tận tường điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Đó là một
việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học.
Vả lại, Phật Giáo
là đạo công truyền chứ không phải bí truyền, là đạo trí tuệ chứ không phải giáo
điều, lại càng không chấp nhận sự cuồng tín. Chính đức Phật đã bác bỏ quan điểm
độc quyền của Bà la môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà la môn mới có quyền đọc
Thánh Kinh Vệ Đà. Phật còn dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta”,
và một chỗ khác lại nói: “Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra,
chứ không phải bàn tay nắm lại”. Hoặc nói: “Phật Pháp là thiết thực hiện tại,
vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ”. Chung quy cũng
chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng và tôn trọng sự
thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc
đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỳ kheo; như Kinh Di Giáo,
Phật dạy Tỳ kheo không được buôn bán đổi chác, không được mua ruộng tạo nhà,
không được đào đất, đốn cây, không được coi ngày, xem tướng v.v... Như vậy toàn
là giới cả, chứ có gì khác đâu. Vả lại, ngày nay, kinh điển giới luật được in
ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta
xem giới cho được.
Chẳng hạn, như
ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý làm
người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem cất trên
khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì thử hoải hành vi ấy là tôn kính
hay bất kinh đối với tổ tiên?
Ai cũng biết rằng
tính chất của giới luật là “thanh lương”, nghĩa là mát mẻ, là “biệt biệt giải
thoát”, tức là giữ được điều nào thì giải thoát được điều ấy, thế mà bảo rằng
“người nào xem trước giới luật Tỳ kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch”
thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ
Phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy thì chỉ nhìn vấn đề
một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu rành giới
luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều, và những tội ác xảy ra hàng ngày
làm cho chúng ta phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Đành rằng công
đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta chẳng
dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối vào ý kiến của Ngài,
thì chúng ta không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Đức
Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin
ngay, dù đó là Thánh điển”.
Thử hỏi từ khi
Đức Đạo Sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến tổ Châu Hoằng
(1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải thắc
mắc, đến khi ngài Hoằng tán (1611-1685) xuất hiện sau tổ Châu Hoằng gần cả thể
kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng ta
không bức xúc cho được?
Do vậy, chúng tôi
mạo muội nêu vấn đề này thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ nhất là hy
vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là
những người mới xuất gia, chưa thọ Đại giới; thứ hai là để cho những ai tha
thiết tìm hiểu giới pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng
Đại giác đã từ bi truyền dạy, vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê bình Ngài
Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc
luật sư cao minh, và hy vọng nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có
điều chi cần phải trao đổi.
VIỆT
NAM PHẬT QUỐC TỰ
Thượng tọa Thích
Huyền Diệu là một vị giảng sư nổi tiếng ở một số Trường đại học trên thế giới.
Nhân chuyến về thăm Việt Nam vào năm 2000, được sự thỉnh mời của Hòa thượng
viện trưởng, Thượng tọa hoan hỷ nói chuyện với Tăng Ni sinh về nhân duyên hình
thành nên Việt Nam Phật Quốc tự tại Bồ đề Đạo tràng, và những khuynh hướng phát
triển của ngôi chùa đại diện cho Phật Giáo Việt Nam tại Thánh tích. Ban biên
tập kỷ yếu xin trích đăng lại nội dung buổi nói chuyện của Thượng tọa tại giảng
đường Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Thượng tọa Thích
Huyền Diệu
I. Nhân Duyên
Hình Thành Ngôi Chùa:
Cách đây 30 năm,
lần đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến nơi này, lòng dâng lên niềm xúc cảm vô
hạn khi nhìn thấy cái nôi Phật, nơi sản sinh ra bậc vĩ nhân mang lại sự bình
đẳng, ánh sáng trí tuệ cho người dân Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói chung đã
trải dài hơn 10 thế kể và đến thế kỷ thứ 13, Phật Giáo Ấn Độ bị biến cố cực
đoan quan trọng đã làm mất đi gần hết những di sản qúy báu đó. Cho đến ngày hôm
nay, Phật Giáo Ấn Độ chỉ còn lại một số Phật tử rất khiêm tốn so với các tôn
giáo khác đang có mặt. Trong khi đó các nước Đông Nam Á vẫn tiếp nối và phát
triển mạnh nền tảng Từ bi, Vô ngã, Vị tha và bình đẳng của Ngài như là một
người bạn đồng hành trong đời sống tinh thần cho mỗi con người qua nhiều thế
hệ, trong đó có đất nước và dân tộc Việt Nam.
Khi nhìn thấy các
nước đang góp phần để hồi sinh lại cái nôi Phật Giáo tại Thánh địa Bồ đề đạo
tràng (Bodhi-Gaya), như gìn giữ những di sản vô giá của nhân loại, thì lẽ đâu
Phật Giáo Việt Nam lại không góp phần thiết thực vào công việc thiêng liêng đó,
mà nguyện ước này chúng tôi đã ấp ủ khi còn ngồi trên ghế các trường Đại học.
Mơ ước xây dựng
một ngôi chùa Việt Nam đầu tiên nơi Thánh địa để cho người con Phật khi đến
chiêm bái Thánh địa và dừng chân trú ngụ lại nơi trang nghiêm thanh tịnh trong
những ngày lưu lại trên xứ Phật, và mang ánh sáng của Người đến với những ai
chưa có duyên đến xứ Phật.
Thời gian cứ lặng
lẽ trôi đi suốt hơn 20 năm trải qua nhiều khó khăn và thử thách, nhưng chúng
tôi nhận được khá nhiều niềm khích lệ lớn lao, trong đó có các bậc trưởng
thượng, các pháp lữ và quý Phật tử khắp nơi hướng về đã góp thêm sức mạnh.
Truyền thống Phật
Giáo Việt Nam không thua kém bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, nâng cao
lòng tự hào và ý thức bảo tồn những di sản văn hóa mà các bậc tiền nhân đã dày
công tạo dựng. Đồng thời cũng muốn đem cái giá trị đích thực đó giới thiệu đến
các nước, cộng đồng Phật Giáo các nước. Niềm mơ ước đó chính là động lực chính
yếu để chúng tôi bền chí vượt qua.
Cuối cùng duyên
lành đã đến, chúng tôi đã mua được một miếng đất và lễ đặt viên đá đầu tiên vào
ngày 24-05-1987. Đó cũng chính là ngày đáng ghi nhớ để đưa Việt Nam Phật Quốc
tự đi vào hiện thực.
II. Địa lý ngôi
chùa:
Việt Nam Phật
Quốc tự tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 30 công giữa những khu ruộng đất
bao la cách Bồ đề đạo tràng và khu thị tứ khoảng 2 km về phía Tây Nam.
Với khu đất rộng
rãi đó, chúng tôi đã sưu tập nhiều loại cây để thêm phần yên tĩnh, nhiều bóng
mát, tiếng chim giúp ích cho việc tu tập và thiền định trong những ngày quý vị
đến chiêm bái thánh địa.
Về kinh phí, Việt
Nam Phật Quốc tự khác với những ngôi chùa lân cận được xây dựng bằng kinh phí
quốc gia, mà Việt Nam Phật Quốc tự được ủng hộ và đóng góp bằng nhiều cách của
đồng bào khắp nơi, nên những tiện nghi thật là khiêm tốn, song cũng bù đắp lại
bằng nhiều trái cây được trồng tại chùa mà phần lớn xuất xứ từ Việt Nam và
nhiều nơi mang đến. Cho nên quý vị sẽ cảm nhận được phần nào về thiên nhiên
Việt Nam trên mảnh đất trù phú của xứ Ấn Độ.
III. Cấu trúc của
ngôi chùa:
1.- Chánh điện:
từ cổng chính đi vào, các vĩ sẽ thấy ngôi chùa được xây dựng kiên cố bằng bê
tông cốt sắt hình vuông và hai mái cong vươn cao giữa những tàn cây như thể
hiện truyền thống của dân tộc.
Chùa có chu vi là
64m và chiều cao là 24m, gồm có tất cả là 3 tầng. Tầng trên là pháp
xá có thể dung chứa cho 30 vị khách Tăng mỗi khi đến chiêm bái Thánh địa. Tầng
thứ hai dùng để trưng bày những di tích, kinh sách, pháp khí trong và ngoài
nước, và tầng thứ ba là tôn thờ Tam thế Phật cùng chư vị Bồ Tát. Phía sau chánh
điện là hậu Tổ, tôn thờ các vị Thánh đệ tử và các vị Thánh Tăng qua các triều
đại. Đối diện với bàn thờ Tổ là bàn tưởng niệm các vị anh linh Tổ quốc Việt
Nam.
2.- Tháp vạn
Phật: được trang trí phía trước bên trái của Chánh điện với bán kính là 12m và
chiều cao là 22m, được chia đều cho 7 tầng. Bên trong tôn thờ Xá lợi Phật và
10,000 vị Phật.
3.- Quan Âm đài:
Có thể nói đây là nét riêng của Việt Nam Phật Quốc tự, cấu trúc hơi giống chùa
Một Cột, nhằm để giới thiệu nét văn hóa của Phật Giáo Việt Nam cho các nước
Phật giáo bạn.
Tuy nhiên, Vạn
Phật và Quan Âm đài chỉ mới đặt nền móng để xây dựng trong tương lai gần đây.
Sau khi hoàn tất hai công trình này. Chúng tôi sẽ tiếp tục xây dựng lầu chuông,
lầu trống vì hiện nay chúng tôi đã có Đại Hồng Chung nặng hai tấn rưỡi, đường
kính 3m và chiều cao là 2,50m. Trống có đường kính là 2m và chiều dài là 1.50m:
tất cả đều được làm trong nước để mang nét văn hóa đặc thù của dân tộc.
IV. Pháp xá:
Hiện nay chùa đã
đưa vào sử dụng hai dãy pháp xã, một cái được xây dựng dọc theo khu đất với
chiều dài là 47m, gồm có 3 tầng và 21 phòng, mỗi phòng có thể ở được 3 người.
Tuy nhiên, trong thời gian qua chờ đợi chánh điện hoàn tất, chúng tôi đã sử
dụng hai phòng tạm thời làm chánh điện và thiền đường cho chư Tôn đức Tăng Ni
và quý Phật tử có nơi tụng niệm, lễ bái và tu tập thiền định trong những ngày
lưu lại.
Dãy pháp xá thứ
hai được xây dựng theo chiều ngang của khu đất với chiều dài là 49m, chiều
ngang 16m, gồm có tất cả 13 phòng, trong đó một nhà ăn 8x12m có thể để được 3
dãy quá đường.
Dự kiến nếu dãy
pháp xá này thuận duyên thì sẽ được lên thêm hai tầng, và đồng thời trang trí
nội thất một tầng hầm dành cho những phái đoàn chiêm bái vào những tháng Hè có
nơi nghỉ ngơi, để tránh cái nóng khắc nghiệt thời tiết của xứ Ấn Độ.
Chúng tôi đã cố
gắng tạo nên những vườn cây với nhiều loại cây trái tạo thêm cảnh thiên nhiên
cho ngôi chùa, đồng thời cũng muốn góp phần gìn giữ môi sinh để cân bằng sinh
thái.
1.- Cây ăn trái:
Dọc theo những con đường nhỏ quanh co uốn lượn trong khuôn viên của chùa, chúng
tôi có trồng nhiều cây ăn trái của vùng nhiệt đới và quen thuộc với người Việt
Nam như cây trái vải, mít, táo, cam, chanh, bưởi, xoài (gồm có 30 loại cây khác
nhau), ổi xá lị (cũng có đến 12 loại) và nhiều loại cây trái khác, đã và đang
cho quả trong nhiều năm qua.
2.- Các
loại hoa kiểng: Phía trước chánh điện và hai dãy pháp xá, chúng tôi đã trồng
nhiều loại hoa kiểng được mang giống từ quê nhà sang: hoa Đào, Mai vàng, Mai
chiếu thủy, Lan, Sứ, Thiên lý v.v... và các loại cây kiểng: Tùng, Trắc bá diệp,
Sao, Thông, Tre, Tầm vông, Trúc cau, Phượng vĩ, Diệp tây ...
3.- Những cây có
sự liên quan đến đời sống đức Phật: Chúng tôi không chỉ mơ ước tạo cảnh thiên
nhiên thuần túy cho chùa và môi sinh, mà còn hướng đến sự duy trì lịch sử Phật
Giáo qua những cây cỏ có liên quan đến đời sống của đức Phật ngày xưa.
Cây Sêsam mà đức
Phật đã hái nắm lá để chỉ cho hàng đệ tử về giáo pháp của Ngài ... “Ý thậm thâm
vi diệu của giáo pháp mà tôi đã chứng đắc nhiều như lá trong rừng và những gì
tôi đã giảng thuyết cho các thầy bằng như nắm lá trong tay của tôi vậy ...”
Cây Long Hoa
(Nagarsana): đức Phật đã thọ ký cho Ngài Di Lặc sẽ ngồi dưới cây này thành đạo
Vô thượng Chánh đẳng chánh giác trong tương lai. Cây đó hiện nay tại Ấn Độ
dường như đã mất giống, nên chúng tôi đã sang tận Miến Điện để mang về trồng.
Kế đến là một
loại cỏ mà ngày xưa đức Phật nhận sự cúng dường từ một đúa bé trai chăn bò,
dùng để trải dưới cội cây Bồ đề ngồi thiền định; đó là cỏ Cát tường, cây Diêm
phù đề, cây Vô ưu, cây Sala, cây Nimpa ... nhiều loại cây cỏ có liên quan đến
đời sống đức Phật. Ngoài ra, còn nhiều loại cây khác đã được chúng tôi chăm sóc
cẩn thận như gìn giữ một di sản vô giá của Phật Giáo.
Chúng tôi đã sống
xa quê hương trên 30 năm để bám trụ và thực hiện những nguyện ước bình dị trở
thành hiện thực như ngày hôm nay, chỉ để góp phần nho nhỏ cho quê hương, cho
dân tộc và Phật Giáo Việt Nam của chúng ta, với niềm tự hào, ý thức bảo tồn
những di sản quý giá và giới thiệu ra thế giới bên ngoài. Vì vậy, chúng tôi
luôn nguyện cầu Tam bảo gia hộ để trong tương lai có được các vị chân tu thật
tài đức đến đây gìn giữ và phát triển đúng với tầm vóc một ngôi chùa đại diện
cho dân tộc và Phật Giáo Việt Nam trên đất Phật; đồng thời góp phần cho Thánh
địa nở hoa Từ bi để mang lại nền hòa bình chân chính cho nhân loại trong thế kỷ
21 này.
Đồng thời hình
ảnh của các vị sẽ là một trong những yếu tố làm hồi sinh lại các Thánh tích
Phật Giáo Ấn Độ, để nhân loại có một hướng đi trung đạo quân bình giữa vật chất
và tinh thần mà không thể mất cân đối như hiện nay.
(Trích trong CÁT
ĐẰNG TẠP LỤC)
DUNG HY PHÁP SƯ
Thích Nữ Như Đức
dịch
Tam thừa Quyền
giáo của Phật Giáo đều coi trọng giới Luật, Kinh Lăng Nghiêm viết: “Nghiêm tịnh
Tỳ ni, hoằng phạm tam giới” (nghiêm trì tịnh giới, làm khuôn phép cho ba cõi).
Tỳ ni dịch là
Luật. Đệ tử Phật là bậc đạo sư của ba cõi, phải nghiêm tịnh hành trì giới luật
mới có thể độ thoát chúng sinh. Khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài Anan hỏi:
“Bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn còn tại thế, chúng con nương theo Đức Thế
Tôn làm Thầy, còn sau khi Thế Tôn nhập diệt, chúng con sẽ nương ai làm Thầy?
Đức Phật dạy: “Các ngươi phải nương theo giới luật làm Thầy”, vì thế trong ba
môn Vô lậu học, giới luật được kể trước tiên. Giới có 3 tụ:
1.- Nhiếp luật
nghi giới: Thọ trì 5 giới, 8 giới, 250 giới Cụ túc ...
2.- Nhiếp thiện
pháp giới: Thực hành tất cả các pháp lành.
3.- Nhiếp chúng
sinh giới: Làm tất cả việc lợi ích cho chúng sinh.
Ba điều này gồm
hết tất cả thiện pháp nên gọi là ba tụ.
Trong các giới
này lại phân ra làm hai hệ Đại thừa và Tiểu thừa:
- 10 giới, 250
giới v.v... là giới của Tiểu thừa.
- 10 trọng giới,
48 giới khinh, Tam tụ giới là giới của Đại thừa.
Tất cả quả Thánh
đều do giới mà thành tựu, cho nên Tỳ kheo thà mất thân mạng, quyết không hủy
phạm giới pháp đã thọ.
Xưa kia, có một
vị Tỳ kheo đi khất thực, đến đứng ngoài cửa của người thợ xỏ ngọc. Lúc ấy,
người thợ đang xỏ ngọc ma ni cho Quốc vương thấy có vị Tỳ kheo đi hóa duyên,
ông bèn vào trong nhà lấy thức ăn ra dâng. Trong lúc đó, con ngỗng của ông ngỡ
là thức ăn nên nuốt mất của ông một viên ngọc; khi trở ra thấy mất viên ngọc,
ông nghi ngờ và trách cứ vị Tỳ kheo đã lấy mất viên ngọc của mình, vị Tỳ kheo
vì sợ ông giết con ngỗng đi, nên lặng yên chịu oan không nói. Người thợ bèn
trói vị tỳ kheo lại đánh đập tàn nhẫn, máu vãi ra đầy đất. Thấy máu con ngỗng
chạy đến hút lấy hút để. Đang con tức giận, người thợ đánh con ngỗng chết ngay.
Lúc bấy giờ vị Tỳ kheo nói bài kệ:
Khi xưa đức Bồ Tát
Xả mạng cứu bồ câu
Ta nay cũng thế
Xả thân muốn thay ngỗng
Do vì ngươi giết ngỗng
Tâm nguyện ta chẳng thành
Khi ấy ông thợ xỏ
ngọc mổ bụng con ngỗng ra, nhìn thấy viên ngọc, ông ta bật khóc to lên, nói với
vị Tỳ kheo rằng: “Ngài chẳng tiếc thân mạng mình bảo hộ mạng sống con ngỗng, đã
khiến cho tôi phạm điều sai lầm lớn”. (Rút ra từ Đại Trang Nghiêm luận).
Đây là tấm gương
hộ trì giới sát.
Còn như các bậc
cổ đức trong Thiền tông: ngài Quy Tông cuốc con rắn, ngài Nam Tuyền chém con
mèo. Đó là “chánh lệnh đương hành, đại quyền đại dụng” (phương tiện đại quyền
biến để khai thị của Thiền tông). Điều này cần phải luận bàn riêng thôi!
Các bậc thiện tri
thức ra đời để dìu dắt chúng sinh, như bậc Đại Y Vương tùy bệnh mà cho thuốc.
Chẳng hạn nói về giới uống rượu, Ngũ giới cũng phải hành trì. Đủ biết tầm quan
trọng của giới không uống rượu như thế nào!
Như ngài Quán
Tông sau khi đắc pháp, tự tại như như, vượt ra khỏi khuôn phép của giới luật, thích
uống rượu, không ngày nào không say. Thế mà người dân trong thôn lại rất yêu
kính Ngài, thường đem rượu ngon đến tặng cho, Ngài để thân thể lõa lồ bước ra
tiếp lấy rượu rồi đi. Ngài vẫn điềm nhiên chẳng hề xấu hổ.
Ngài thường cởi
trần đi xuống núi. Có người hỏi Ngài: “Thế nào là gia phong của đạo giả?”
Ngài đáp: “Áo cà
sa gói giày cỏ”. Có một hốm Trần Quán sắp đi thi, hỏi: “Quán chuyến này muốn
làm Trạng Nguyên có được không?” Ngài nhìn Trần Quán một lúc rồi đáp: “Không
thời chắc được". Đến khi yết bảng, Trần Quán đỗ hạng nhì, còn Thời Ngạn
được làm Trạng Nguyên. Thiền sư Đại Đạo Cốc Tuyền ở am Ba Tiêu tại Nam Nhạc bác
bỏ giới luật, đi đến chùa nào đều bị đuổi cả. Ngài được Phần Dương truyền pháp
ấn rồi đi về phía Nam rong chơi khắp miền sông Tương. Một hôm, Ngài cùng Tử
Minh đi chơi núi, trong núi có một cái đầm là chỗ ở của con rồng độc, mỗi khi
trẻ chăn trâu ném đá xuống đầm, tức khắc sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống cả
mấy ngày. Những người đi ngang đều không dám ho hay thở mạnh. Lúc Ngài và Từ Minh
trở về thì trời đã xế chiều, khí trời nóng bức, Ngài kéo áo Từ Minh cùng với
Ngài xuống đầm tắm. Từ Minh không chịu, Ngài bèn cởi áo xuống tắm một mình,
Ngài vừa nhảy xuống thì sấm sét ầm ầm nổi lên, gió lạnh thổi, mưa tuôn, rừng
cây chấn động, Từ Minh ngồi xổm trên bãi cỏ định bụng chắc phen này Cốc Tuyền
đi đứt. Chẳng mấy chốc tạnh mưa, Ngài rướn cổ lên khỏi làn sóng, kêu kên “Khoái
quá!”.
Ngài cũng đã từng
đi qua huyện Hành Sơn, thấy anh hàng thịt đang xẻ thịt, bèn đứng kế bên làm ra
vẻ rất đáng thương, chỉ tay vào miệng. Anh hàng thịt thấy vậy hỏi “Ông câm à?”
ngài gật dầu. Anh hàng thịt thấy tội nghiệp, bèn cắt một miếng thịt to để vào
bát của Ngài. Ngài hớn hở khác thường nói cảm ơn rồi đi. Cả chợ cười rộ lên.
Ngài thường dùng gậy quảy bầu rượu, qua lại trong núi. Có người hỏi trong bầu
rượu có vật gì? Ngài đáp, “Nước cốt của đại đạo”. Rồi tự nói bài kệ:
Thong dong cùng mặt đất
Rong ruổi khắp cuối trời
Thân choàng manh khố rách
Ăn xong lại ngủ vùi
Mặc ngày qua trời rạng
Kệ đêm đến trăng soi
Sá gì câu vinh nhục
Can chi chuyện đổi dời
Quảy bầu rượu nóng trên đầu gậy
Non Nam núi Bắc mặc tình chơi!
Vào niên hiệu
Vĩnh Hựu, đời Tống, Nam Tử Lãnh Thanh bị người sàm tấu mà vướng vào tội chết,
lúc quan binh vây bắt. Lãnh Thanh từ trong am Ba Tiêu chạy ra. Do đó, Cốc Tuyền
bị tội liên can, bị phạt trượng, đày đi làm quân lao (khổ sai) ở Bân Châu, phải
gánh đất dưới nắng gắt. Bỗng dưng Ngài bỏ gánh xuống nói bài kệ:
Sáng nay ngày mùng Sáu
Cốc Tuyền bị đi đày
Nếu chẳng lên thiên đàng
Ắt phải vào địa ngục.
Nói xong Ngài mỉm
cười thị tịch, thản nhiên như ve sầu thoát xác. Khi hỏa táng Ngài, xá lợi nhiều
không đếm xiết. Người Bân Châu xây tháp thờ Ngài, hiện nay tháp vẫn còn.
Ngài Hồng Phạm
tán thán rằng: “Sống là cái đáng quý, chết cái đáng sợ, không tránh cái đáng
tránh. Việc làm của Ngài như thế không biết là thật hay giả. Điều này chỉ có
trời đất biết. Lúc bấy giờ trong Thiền môn sự nghiêm túc được kính trọng, Sa
môn tu hành thanh tịnh được đề cao, hể có tỳ vết thì càng chê bai mắng nhiếc,
phải chăng Cốc Tuyền đem việc này sửa sai chăng?”
Trên quan điểm
này, Thiền sư Cốc Tuyền chỉ là dùng thân mình để làm phương thuốc thôi. Người
xưa liễu ngộ đại sự rồi càng canh cánh bảo nhậm, hộ trì cấm giới như giữ tròng
con mắt của mình. Còn như Hòa thượng Long Sơn, ẩn dật nơi non cao, rừng sâu
cũng không ngoài việc điều phục những tập khí nhiễm trước từ vô thỉ.
Một hôm Động Sơn
chùng Mật sư đi du phương hành cước, ngang qua Long Sơn thấy trong dòng suối có
lá rau, Động Sơn nói: Núi sâu không có người, sao lại có lá rau trôi theo dòng
suối, phải chăng là có đạo nhân trong núi sao”. Nói xong hai Ngài cùng nhau lần
theo dòng suối đi lên khoảng 5-7 dặm, chợt thấy có một vị Tăng (Long Sơn) thân
hình gầy ốm, diện mạo khác thường, bèn bỏ hành lý xuống thăm hỏi.
Ngài Long Sơn
hỏi: Núi này không có đường vào, Xà lê làm sao đến đây được?
Động Sơn đáp:
Việc không có đường hãy gác lại, Hòa thượng làm sao vào núi được?
- Ta không từ mây
nước mà đến.
- Hòa thượng ở
núi này bao lâu rồi?
- Chẳng dính gì
đến năm tháng.
- Hòa thượng có
trước hay núi có trước?
- Chẳng biết.
- Vì sao chẳng
biết?
- Ta chẳng từ
trời, người đến.
- Ngài được đạo
lý gì mà đến ở núi này?
- Ta thấy hai con
trâu đất đấu nhau vào biển, mãi đến nay cũng chẳng có tin tức gì.
Động Sơn bèn đầy
đủ oai nghi bái Long Sơn hỏi:
- Thế nào là
khách trong chủ?
- Núi xanh che
mây trắng.
- Thế nào là chủ
trong khách?
- Lâu năm không
bước ra khỏi cửa.
- Khách chủ cách
nhau bao xa?
- Sóng trên nước
Trường Giang.
- Khách chủ gặp
nhau có lời gì?
- Gió mát đùn
trăng sáng.
Sau khi Động Sơn
cáo lui, Long Sơn nói bài kệ:
Lá sen làm áo một ao đầy
An sẵn hoa tùng khắp đó đây
Chỗ ở từ nay người biết đến
Dời am vào núi khỏi ai hay.
Long Sơn đốt am,
đi biệt vào trong rừng sâu, không ai biết dấu vết sư nữa.
Ngoài ra, những
bậc Đại đức lo đóng cửa tịnh tu ngừa lỗi ngăn quấy, 20-30 năm không xuống núi,
không thể kể hết. Nay đạo giả Quán Tông và Thiền sư Cốc Tuyền phóng đãng đến
như thế là để xả thân cứu người, thế thì đâu là cung bậc của các Ngài? Bởi
không biết ngộ có sâu cạn, sức mạnh có yếu, nguyện có thế này thế khác. Kinh
Lăng Nghiêm viết: “Trì phạm chỉ để thúc liễm thân, nếu chẳng có thân thì thúc
liễm cái gì?”
Bậc thiện tri
thức dứt bỏ tất cả, việc đến thì làm, sao mà biết được tung tích của họ!
Đạo giả Quán Tông
thấu suốt ba đời, Thiền sư Cốc Tuyền định lực rốt ráo. Hai bậc tông tượng này há
không biết nơi phải đến sao? Tuy nhiên, cần phải đạt đến một mức độ nào đó thì
mới nói chuyện, chứ còn muốn bắt chước các vị ấy phóng đãng hình hài thì sẽ đọa
vào địa ngục nhanh như tên bắn.
Ở đây, tôi xin
đưa ra một thí dụ, giới luật giống như “quy củ” (compa và thước). Khi vẽ vòng
tròn thì dùng “quy” (compa), khi vẽ hình vuông thì dùng”củ” (thước), nhưng Ngộ
Đạo Tứ đời Đường vẽ hào quang của chư Phật, chỉ huơ bút một cái là xong ngay,
dùng thước quy để đo lại thì không sai một mảy. Phải có năng lực của Ngô Đạo Tứ
mới vẽ được như thế, Nếu người khác bắt chước vẽ theo chắc chắn sẽ giống như
miệng của cái túi, làm sao có thể tròn được? Cho nên, theo tôi nghĩ: Vấn đề
giới luật Phật Giáo là một việc cực kỳ quan trọng.
Thượng tọa Thích
Đạt Đạo
Từ xưa đến nay
hầu hết ngộ nhận vật chất nhân sinh là quan điểm cốt yếu. Mù quáng xem vật chất
nhân sinh là thật vĩnh viễn, hiểu lầm những cai giả tướng cho là thật tướng. Đó
là những căn nhà được xây bằng gạch, trinh, cột, kèo, lợp ngói, tráng xi măng.
Những căn nhà này sẽ bị hủy hoại theo thời gian. Cho nên, nó chỉ là căn nhà cho
ta tạm ở nương thân xác để đạt đến căn nhà thật sự của nội tâm.
Chúng ta lắng
nghe một cách cung kính bài thuyết pháp về ngôi nhà thật sự của vị giảng sư.
Chúng ta hãy chú ý từng lời như là chính đức Phật đang ở trước mắt chúng ta.
Xin hãy nhắm mắt lại và giữ thân thoải mái, nhiếp tâm lại để được định. Hãy tỏ
lòng tôn kính bậc giải thoát, để tâm tràn đầy ba điều: Trí tuệ, chân lý và
trạng thái thanh khiết.
Chúng ta nên biết
rằng ngay chính đức Thế Tôn với vô lượng công đức mà còn không tránh được cái
chết của thể xác, Ngài bỏ thân xác, bỏ gánh nặng. Bao nhiêu năm qua chúng ta
nhờ cậy thân xác để hiểu biết là quá dư! Nhưng thể xác của chúng ta nó biến đổi
ngay từ khi ta mới sinh ra. Khi còn bé, lúc mới lớn và cho đến giờ đây khi tuổi
đã già, ta phải chấp nhận điều đó.
Phật dạy các hành
giả, dù thuộc về thân hay tâm đều vô thường vô ngã. Hãy quán xét chân lý này
cho đến khi nào ta hiểu được rõ rằng nụ cười của sụ chết trên đôi mắt của chúng
ta.
Chính đống thịt
hư hoại đang nằm đây là Saccadhamma, chân lý - chân lý nằm trong thân xác và
lời dạy không di dịch của đức Phật. Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân thể,
quán niệm và thấu hiểu bản chất của nó.
Chúng ta phải
sống an lạc với nó dù nó ở trong bất cứ tình trạng nào. Phật dạy chúng ta phải
luôn nhớ, biết rằng chỉ có thân thể mới bị giam trong tù ngục, còn đừng để tinh
thần cũng bị giam hãm trong đó.
Đức Phật dạy:
Sinh ra, già cỗi, bệnh hoạn rồi chết. Đây là chân lý vĩnh cửu mà chúng ta đang
phải đối diện. Đó là bản chất tự nhiên của thể xác, không thể nào khác đi được.
Hãy nhìn lại thân xác với con mắt của trí tuệ và thấy ra chân lý. Dù ngôi nhà
chúng ta bị ngập lụt hoặc thiêu đốt trong tâm. Hãy để tâm rũ bỏ mọi quán niệm.
Chân lý này được áp dụng cho tất cả chúng ta ngay cả đức Phật và các Thánh đệ
tử của Ngài.
Cuộc đời lạ lùng,
mỗi cuộc đời là một sự mâu thuẫn, một chân lý mới, một phép lạ mới. Chúng ta
phải bỏ tất cả tư tưởng và lăn mình vào cuộc sống, cuộc đời mâu thuẫn. Đây
không phải là bi kịch, chỉ bi kịch là khi người ta sợ mâu thuẫn, chân lý là sự
bí mật!
Con người chúng
ta ngày trước, bây giờ không còn nữa, con người hồn nhiên ấy cũng chết theo
dòng đời. Đôi mắt chúng ta ngày nay không còn là đôi mắt của ngày xưa. Chúng ta
là một kẻ khác lạ, không phải là chúng ta nữa.
Có khi nào chúng
ta ra phố và giật mình nghe chúng ta cười tất cả những điều thảm thương ở trần
gian, sự ngộ nhận khắp nơi, sự xung đột đời đời, sự hung dữ tàn ác, những điều
làm con người trở nên một vật nham hiểm, chúng ta cười sự chết.
Chúng ta phải
thương yêu tất cả nhân loại, yêu cả những kẻ thù, yêu cả những điều chúng ta
ghét, yêu hết mọi vật ở trần gian này.
Chúng ta phải
biết rằng rồi đây chúng ta sẽ chết, bởi thế nên chết là một thực tại, sống cũng
là một thực tại, chết không thể nào tránh được cũng như sống không thể nào
tránh được. Chúng ta đã sống một thời gian dài. Mắt chúng ta đã thấy nhiều hình
thể, màu sắc. Chúng ta đã có đủ thứ kinh nghiệm, và tất cả chỉ là vậy - những
kinh nghiệm - chúng ta đã nếm nhiều đồ ăn ngon và vị ngon chỉ là vị ngon, chẳng
có gì hơn, vị dở cũng chỉ là vị dở, chỉ thế thôi.
Nếu mắt có thấy
hình sắc đẹp thì chỉ là hình sắc đẹp, vật xấu chỉ là vật xấu, tai nghe một âm
thanh du dương, lôi cuốn thì cũng chỉ có thế, chẳng có gì hơn. Một âm thanh
chói tai, khó nghe thì cũng chỉ vậy thôi.
Đức Thế Tôn đã
dạy dù nghèo hay giàu, già hay trẻ, người hay vật, không một ai trong thế giới
này có thể giữ tình trạng nguyên thủy. Mọi vật đều thay đỗi và thành khác đi.
Đây là một thực tế của cuộc đời mà ta không cách nào sửa đổi.
Tuy nhiên, đức
Thế Tôn dạy điều ta có thể làm là quán sát thân và tâm để thấy tính vô ngã của
nó, để thấy không có cái nào là “Tôi” hay “Của Tôi”. Chúng ta chỉ có tình trạng
tạm thời. Cũng giống như ngôi nhà này, chỉ là của chúng ta trên danh nghĩa,
nhưng ta không thể mang nó theo bất cứ nơi đâu. Cũng vậy, tài sản, sự nghiệp,
gia đình được ta, tất cả chỉ là của ta trên danh nghĩa, chúng không thực sự
thuộc về ta, chúng thuộc về lẽ tự nhiên.
Chân lý này không
thể chỉ áp dụng cho bản thân ta mà cho tất cả mọi người, ngay đức Thế Tôn và
các vị Thánh đệ tử của Ngài. Họ chỉ khác chúng ta ở một điểm là họ chấp nhận
bản chất mọi thứ là như vậy, không có cách nào khác hơn. Do đó, đức Thế Tôn dạy
chúng ta nên phân tích và quán sát thân thể này, từ gót chân lên đến đỉnh đầu,
rồi trở ngược xuống gót chân. Hãy thử nhìn ta thấy những gì? Có cái gì thực sự
sạch sẽ không? Ta thấy cái gì thường còn không? Cả thân thể này chắc chắn đang
tan hoại và đức Thế Tôn dạy ta thấy rằng nó không thuộc về ta. Lẽ dĩ nhiên thân
thể là như vậy. Bởi các hiện tượng hữu vi đều biến đổi, ta làm sao muốn chúng
khác hơn?
Thực ra, chẳng có
gì sai lầm khi thân thể là như vậy, không phải thân thể làm ta đau khổ, mà
chính là cách suy nghĩ sai lầm của ta. Khi ta thấy cái đúng thành sai thì sẽ
gặp phiền não. Nên ta phải sống trong những giây phút thiên thu bất diệt. Giờ
đây, ta thấy ta có thể làm bất cứ chuyện gì trên đời này. Ta phải sống trọn vẹn
với ta. Ta không còn đau khổ nữa. Ta chấp nhận đau khổ “Không có sự đổ vỡ nào
mà vô phương cứu chữa. Tất cả ý nghĩa cuộc đời nằm trong chữ “đau khổ”. (H.
Miller). Chính sự đau khổ đã làm cho cuộc đời trở nên có ý nghĩa và đáng sống.
Ta không còn than van oán trách nữa. Ta cười, ta thường nghĩ đến sự đau đớn và
sau cùng ta chỉ biết cười. Sống là thiêng liêng. Đau khổ cũng thiêng liêng,
không có sự đau khổ, ta không thể nào đi vào được bên trong cuộc đời và không
thể nào hiểu được những bí mật của đời người. Không có sự đau khổ ta sẽ nằm
triền miên trong giới hạn, chán cuộc sống tẻ nhạt. Sự đau khổ làm phong phú tâm
hồn ta. Biết đau khổ mà không than mới là chân lý của đời.
Sự đau khổ là
phiền não. Cũng giống như nước sông chảy xuôi dòng một cách tự nhiên, không bao
giờ chảy ngược. Bản chất nó là như vậy.
Nếu một người
đứng trên bờ sông, thấy được nước đang chảy nhanh xuôi dòng, lại ngông cuồng
muốn nó chảy ngược lên thì anh sẽ đau khổ. Dù anh ta có đang làm bất cứ điều gì
thì cách suy nghĩ sai lầm của anh ta cũng sẽ làm cho anh ta không có chút yên
tĩnh tâm hồn. Anh ta sẽ đau khổ vì quan niệm và suy nghĩ sai lầm, muốn đi ngược
dòng. Nếu anh ta biết đúng, anh ta sẽ thấy là phải chảy xuôi dòng; và bao lâu
mà anh ta chưa thấy ra và chấp nhận điều đó, anh ta sẽ xáo trộn và bất an.
Thân thể chúng ta
cũng vậy từ trẻ rồi già đến chết. Đừng mong nó khác hơn. Chúng ta không có khả
năng sửa đổi. Phật dạy chúng ta đừng có quyến luyến và chấp nhận bản chất của
nó. Chúng ta phải lấy tâm buông bỏ làm trú xứ. Tiếp tục hành thiền, dù ta đang
mệt mỏi, kiệt sức. Để tâm an trú vào hơi thở, niệm “Buddho”. Tập cho thành thói
quen. Càng đuốí sức càng tạp trung vi tế hơn, như thế có thể chịu đựng những sự
đau đớn về thể xác vừa sinh khởi. Khi ta cảm thấy mệt mỏi ta đừng suy nghĩ lại
và chỉ biết có hơi thở, chỉ giữ niệm trong tâm: Buddho-Buddho. Ta rũ bỏ mọi thứ
bên ngoài. Để tâm tập trung vào một điểm duy nhất và dùng tâm đã an trú theo
dõi hơi thở - chỉ để hơi thở là đối tượng duy nhất của tâm. Tập trung đến khi
nào tâm càng ngày càng gạn sạch, mọi cảm xúc không cò mạnh mẽ nữa mà chi còn sự
tinh khiết nội tâm rộng lớn cùng sự tỉnh thức. Lúc đó, nếu cảm giác đau đớn có
sanh khởi thì nó cũng sẽ tự tan biến. Phương cách này, đừng đem bất cứ gì theo
chúng ta. Phải nhận biết và sau khi đã biết rồi, hãy buông bỏ.
Ngôi nhà thực sự
của chúng ta là sự an tĩnh nội tâm. Ngôi nhà vật chất bên ngoài có thể rất đẹp
đẽ, nhưng nó không mấy an tĩnh. Có những mối bận tâm này rồi mối bận tâm kia,
lo âu này rồi lo âu kia. Bởi thế nó không phải là ngôi nhà thật sự của chúng
ta. Nó ngoài ta và sớm muộn gì rồi ta cũng xa rời nó. Đó là nơi ta không thể
sống vĩnh viễn, bởi nó không thật sự thuộc về ta. Nó là một phần của thế gian,
thân thể ta cũng tương tự như vậy. Ta cho nó là “Ngã”, là “Ta”, là “Của Ta”.
Nhưng thực sự không phải như vậy, nó cũng là một ngôi nhà khác của thế gian, vì
thế cho nên đức Phật dạy:
Các hành đều vô thường
Bản chất thường sinh diệt
Có sinh tất có diệt
Ngưng nó được là chân hạnh phúc.
GỞI VỀ QUÝ VỊ TĂNG NI SINH THÂN MẾN
Giáo sư Trần
Phương Lan
Phụ
trách Môn Anh văn Thuật ngữ
Thấm thoát bốn
năm học tại Học Viện này sắp trôi qua. Tất cả sinh viên đã và đang chuẩn bị đầy
đủ hành trang bước vào cuộc đời rộng rãi hơn cuộc đời học trò trong mái trường
hiện tại. Sau nhiều năm dùi mài học tập, giờ đây tất cả quý vị sẵn sàng tiến
lên theo hướng đời mình đã chọn lựa bấy lâu.
Trong suốt thời
gian quý vị học với tôi, tôi đã nhận thấy quý vị khóa này cũng như quý vị khóa
trước đều nổ lực học tập môn “khó tiêu” này, và đa số đã đạt kết quả tương đối
tốt. Những khuôn mặt vui tươi chăm chỉ và ý thức cầu tiến của đa số quý vị đã
khích lệ tôi trong việc giảng dạy một môn học còn khá mới lạ đối với số đông,
nhưng tôi vẫn luôn hy vọng sau khi quý vị đã vượt qua những khó khăn ban đầu,
quý vị sẽ nhận thấy ích lợi lâu dài của việc nghiên cứu kinh điển qua Tiếng Anh
và dần dần quý vị sẽ cảm thấy thích thú khi mình càng ngày càng tiến bộ để đáp
ứng với nhu cầu học tập của các thế hệ Tăng Ni trẻ trong tương lai.
Tôi vẫn luôn ghi
nhớ những tình cảm thân thiết quý báu mà cả hai lớp Tăng Ni khóa IV này dành
cho tôi trong những năm học qua những dịp lễ Nhà giáo, Lễ Quốc tế Phụ nữ và
ngay cả trong sinh hoạt bình thường ở trong và ngoài trường lớp.
Tôi hy vọng sau
khi rời Học Viện, tất cả quý vị vẫn luôn tinh tấn trau dồi phẩm cách đạo
đức và tiếp tục trang bị thêm kiến thức của một sứ giả Như Lai để hòa nhập vào
cộng đồng Phật Giáo thế giới sánh vai cùng các pháp hữu năm Châu và làm rạng
danh Phật Giáo Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa này.
Thân chúc tất cả
Quý vị được thành công như ý trên đường tu học và hoằng pháp sau này.
MỘT MÔN HỌC KHÓ “ƯA”?
Đại đức Thích Tâm
Đức
“Sư phụ”, hai
tiếng thật thân thương làm sao! Đó là âm thanh mà tôi thường được nghe mỗi lần
gặp gỡ các Tăng Ni sinh của HVPGVN tại Saigon, và thú thật, tôi cũng không ngờ
mình lại có nghiệp duyên với nghề dạy học mà môn đầu tiên lại là Pàli, một cổ
ngữ Phật Giáo thật khó “ưa”.
Nhưng dù thế nào
đi nữa mình cũng phải bằng cách nào đó giúp Tăng Ni sinh chuyển “thành kiến”
với môn học này, và trước hết, sau khi “test” trình độ và tâm lý của TNS tôi đã
có những cách dạy và phong cách thích hợp.
Mỗi TNS được nhận
những “bửu bối” là những bảng tóm tắt ngữ pháp ngắn gọn và được khích lệ lên
bảng làm bài tập trong tinh thần “cả lớp cùng làm”, “sai càng tốt”, “học vì
thực chất chứ không phải vì điểm thi ...” Môn học được làm “kêu” lên bởi có
thêm chữ viết Devanagari và thầy trò cùng học với nhau trong tinh thần “huynh đệ”.
Thế rồi, thời
gian trôi qua, số lượng TNS ngày càng tăng thêm trong việc hiểu và thích thú
môn học Pàli này, một môn học đã phổ biến từ lâu không những ở các nước Phật
Giáo Nguyên thủy như Thái Lan, Tích Lan ... mà còn phổ biến ở các nước Phật
Giáo Đại thừa như Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan; thậm chí còn được khá phổ
biến ở các nước phương Tây. Ngay ở Anh Quốc có hội Pàli Text Society chuyên
dịch Tam Tạm Pali ra tiếng Anh. Một môn học thật cần thiết cho việc nghiên cứu
tư tưởng Phật Giáo Nguyên thủy thẳng vào nguyên bản, nhưng ở Việt Nam cho đến
nay vẫn còn quá ít người hiểu biết.
Và thật khích lệ
biết bao khi càng ngày có thêm những âm thanh thân thương “Sư phụ ơi, sư phụ mà
dạy sớm hơn một tí nữa thì tụi con đỡ biết mấy!”, “Con đi Thái Lan học mấy năm
mà vẫn chưa biết được nguồn gốc của chữ Pàli và mãi đến nay mới biết
được", “Sư phụ ơi, tụi con học Pàli là vì sư phụ đó! ...”
Cuối cùng, tôi
rất mừng khi thấy có những TNS đã thật sự thích thú và nắm vững được căn bản
của môn học này, và hy vọng họ sẽ phát huy hơn nữa và truyền bá ra trong tương
lai sau khi ra trường và cũng qua đó mà thâm nhập vào tinh hoa tư tưởng của
Phật Giáo Nguyên thủy mà giá trị của nó như đã được một học giả Nhật Bản nổi
tiếng, Kimura Taiken, nhận xét: Ta sẽ không hiểu đúng tư tưởng Phật Giáo Đại
thừa nêu không hiểu được tư tưởng Phật Giáo nguyên thủy”.
Mong sao môn Pàli
được phổ biến hơn nữa và đến tận mọi trường Phật học trên cả nước Việt Nam thân
thương của chúng ta.
GS. Hoàng Thiệu
Khang
Cố giáo sư Hoàng Thiệu Khang đã đến với chúng ta với
tất cả tầm lòng đầy nhiệt
huyết của một con người luôn hy sinh tất cả để rồi trở về cõi hư vô. Trong cái
cõi
vô thường ấy luôn luôn hiện hình ảnh của một bông hoa mỹ miều và tươi đẹp.
Chính đóa hoa vô thường ấy đã tạo cho vườn hoa thẩm mỹ Phật Giáo ngày càng
phong phú hơn. Để tưởng nhớ và trước ân những gì mà cố Giáo sư đã cống hiến và
để lại trong ký ức của mỗi Tăng Ni chúng ta. Ban Biên Tập Kỷ Yếu xin trích đăng
bài viết sau đây của cố Giáo sư.
Lịch trình tư
tưởng thiền học là sự khỏi cái Thường để thấy được cái Vô thường, khỏi cái Ngã
để tiến tới cái Vô ngã. Lịch trình Mỹ học của Thiền học là sự nhìn nhận chân
phạm trú cái Bi để tiến lên cái Đẹp nơi từng nhân cách. Hai lịch trình đó là
linh hồn của Thiền học.
Như vậy, Thiền là
tư tưởng triết học, cũng vừa là thái độ, cách thể sống của con người Giác ngộ.
Con người Giác
ngộ ấy, trước hết bộc lộ mình nơi con mắt nhìn cõi tự nhiên và nhìn cuộc sống.
Đó là đôi mắt đạt đến độ Tuệ Nhân.
Bằng đôi mắt Tuệ
Nhân ấy, các vị Thiền sư đã nhìn cảnh mùa xuân. Đó là ý niệm thời gian của bậc
minh triết.
Mùa xuân được
Thiền su cảm nhận như là một tương đối của cái Vô thường tuyệt đối. Đó là thời
gian được hiện tượng hóa, vật thể hóa, biểu thị cho quy luật đang vận hành ẩn
tàng trong vũ trụ. Đó là dòng chảy mang tính chất tự nhiên, khách quan.
Mãn Giác Thiền sư
đã nhìn Xuân:
Xuân trôi trăm hoa rụng
Xuân tới trăm hoa cười
(Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai).
Vạn Hạnh Thiền sư
cũng đã nhìn mùa xuân:
Cây cối xuân tươi, thu não nùng (Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô)
Cây cối xuân tươi, thu não nùng (Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô)
Trung tâm nội
dung của những câu kệ và câu thơ trên được nằm trong ý nghĩa của hai chữ “Vô
tình”. Nó không mang nghĩa thông thường, nghĩa tâm lý, tình cảm (thờ ơ, lạnh
nhạt ...) đó chỉ là một thuật ngữ triết học. Nó chỉ định tính chất khách quan
của quy luật. Đã là quy luật thì không phụ thuộc vào bất cứ ý chí ý muốn chủ
quan nào cả, không thiên ái thiên vị. Như vậy “Vô tình” là một khái niệm nằm
trong phạm trù Vô thường. Dưới một thác nước từ trời cao đổ xuống thì nhà sang
hay nhà hèn ... đều bị cuốn trôi như nhau.
Tư tưởng này cũng
được Lão Tử đề cập tới trong trong chương V của Đạo Đức Kinh:
Trời đất không có Nhân
Coi vạn vật như loài chó rơm
Thánh nhân không có Nhân
Coi trăm họ như loài chó rơm.
(Thiên địa bất Nhân
Dĩ vạn vật vi sô cẩu
Thánh nhân bất Nhân
Dĩ bách tính vi sô cẩu).
Thoạt nghe thấy
lạ lùng! Nhưng nếu hiểu cái nghĩa đích thực của chữ “đạo” thì sẽ hết thắc mắc.
Đạo là cái luật lạnh lùng của trời đất, không tư vị ai cả nên gọi là “bất
nhân”. Bậc Thánh nhân đã là Đại giác lẽ Đạo nên cũng hành xử theo quy luật. Về
sau Lão Tử nói rõ cái nghĩa hai chư “bất nhân” này trong bài “Sô Cẩu”.
Như vậy, cặp mắt
nhìn vũ trụ trong Vô thường là cặp mắt khám phá được luật biến động, vận động,
đổi thay ... của vũ trụ, dẫu chúng đã hiện hành nơi cõi tự nhiên hay đang âm
thầm tiềm ẩn.
Cặp mắt Đại giác
ấy đã nhìn vào cõi nhân sinh. Cõi ấy cũng Vô thường. Nó luôn luôn vận động
tuyệt đối, một thay đổi liên tục “Thế gian biến cải vũng nên đồi” (Nguyễn Bỉnh
Khiêm), hay “Sông xưa rày đã biến nên đồng”.
Trước cái lẽ biến
đổi bất tận ấy, con người phải cảm nhận và xử sự như thế nào? Đó là cái lẽ thứ
hai của Thiền.
Vạn Hạnh Thiền sư
đã nhìn vào thân để chiêm nghiệm:
Thân như bóng chớp có rồi không
(Thân như điện ảnh hữu hoàn vô)
Như vậy, đừng bao
giờ nghĩ rằng cái thân của ta là vĩnh viễn có, là Thường. Tất cả tạo vật, con
người đang sống chỉ là ở “trọ” mà thôi.
“Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe suối nguồn ...
Trăm năm ở trọ ngàn năm”
(Trịnh Công Sơn)
Lầm tưởng mình là
có cũng vì cái căn ngã của mình còn nặng. Thường và Ngã là hai biểu hiện tập
trung của ngộ nhận, của cái Bi thẩm mỹ. Tất cả đều là trong sự điều hành vô
hình của Vô thường. Cho nên đừng mải miết đi trong cõi phù du mờ mịt của thân
ta đòi hỏi:
“Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
Trên hai vai ta hai vầng nhật nguyệt
Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”.
Con người phải
tiến được đến cách thể Vô ngã. Có như thế thì con người mới được an nhiên tự
tại. Đã thức nhận được thân như là bóng chớp, thức nhận được “cây cối
xuân tươi, thu não nùng” thì không còn cảm giác sợ hãi:
“Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi”
(Nhậm vận thịnh suy bô bổ uý)
Ta coi thịnh cũng
như suy đều chỉ là tạm thời. Chúng đều nhẹ như giọt sương đọng trên lá cỏ
(Thịnh suy như lộ thảo đầu phô). Vả chăng trong thịnh có suy và trong suy có
hàm chứa một tiềm năng, một khả thế của thịnh. Nhìn được thịnh suy như vậy mới
thanh thản tinh thần. Lão Tử cũng đã nói cái nghĩa ấy trong một câu ở chương
XIII của Đạo Đức Kinh: “Vinh trên thì nhục dưới” (Sủng vị thượng, nhục vị hạ),
đó chính là lẽ biện chứng nhân sinh.
Lại nữa thịnh suy
cũng chỉ là những cái diễn ra trong cõi hiện tượng, cõi “sự vật cho ta”
(E.Kant) mà thôi. Thật ra là cõi huyễn tượng.
Giác Hải Thiền sư
đã nhìn vào cái tươi tốt rộn rã của mùa xuân bắng cặp mắt Đại giác ấy:
Xuân sang hoa bướm khéo quen thì
Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo
Thấy hoa mặc bướm để lòng chi
(Xuân lai hoa điệp thiên tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị uyển
Mặc tu hoa điệp hướng tâm trì)
Tất cả thế giới
hiện hình chỉ là một cõi bát ngát của huyễn ảo. Cho nên cũng đừng bị huyễn hoặc
bởi nó. Không bị huyễn hoặc nữa thì lòng ta thanh thản. Lúc ấy nói như Thiền sư
Hiện Quang:
Mông mênh quăng đồng ruộng
Tùy ý tự rong chơi
(Vô vi cư khoáng dã
Tiêu dao tự tại thân)
khỏi Thường và
Ngã con người trở thành lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Thiền sư Mãn Giác đã
phát biểu tư tưởng ấy:
Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
(Mặc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai).
Không phải đến
mùa Xuân sau, ngay trong mùa Xuân tàn này vẫn đang chất chứa một tiềm năng của
sự sống sinh nở. Đó là cái nhìn biện chứng của Thiền.
(Trích “Giáo dục
Phật Giáo trong giai đoạn hiện đại”
tại buổi hội thảo
về Giáo dục Phật Giáo do
Viện Nghiên Cứu
Phật Học Việt Nam tổ chức -1995)
Giáo sư Hoàng Như
Mai
Theo sự nhận xét
và suy luận của tôi, Phật Giáo đến với giới trí thức gặp nhiều khó khăn trở
ngại. Tôi nói đây là nói về trí thức nói chung chứ không phải trí thức này hay
người trí thức khác cá biệt.
Giới trí thức
Việt Nam xưa, quen gọi là giới Nho sĩ, từ nhỏ, nếu không nói từ trong thai, đã
học đạo Khổng, Ý thức của họ được hình thành và phát triển theo quỹ đạo của đạo
Khổng.
Đạo Khổng là học
thuyết của giới cầm quyền, trị nước, đạo Khổng đào tạo ra những con người sẽ
lãnh trách nhiệm cầm quyền trị nước, vốn được mệnh danh là quân tử. Quân tử
nghĩa chữ là con của vua. Quân tử là những người cai tri, bọn thường dân được
gọi là tiểu nhân, nghĩa chữ là người nhỏ. Quân tử đức phong tiểu nhân đức thảo
thảo thượng phong phi.
Trái lại, đạo
Phật là đạo của chúng sinh, trong phạm vi nhân loại, là quần chúng đông đảo.
Như vậy, những
người được đạo Khổng đào tạo đứng ở vị trí đối lập với đạo Phật. Xin được nhắc
lại nói vậy là nói chung về nho sĩ, chứ cũng có những nho sĩ hiểu và có cảm
tình với đạo Phật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du ... thì đó là những người cá
biệt.
Giới trí thức
hiện nay, nếu không được trực tiếp đào tạo bởi đạo Khổng thì thông qua gia
đình, sử sách, phong tục tập quán ... vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của Khổng
giáo, và đó là một bức tường thành, hoặc ít nhất là một sự vật cản ngăn cách họ
với đạo Phật.
Nói về phương
pháp tư tưởng thì đạo Khổng chủ yếu là duy lý. Đã chịu ảnh hưởng duy lý của
Khổng giáo qua truyền thống, họ lại bị nhồi sọ bỏi chủ nghĩa duy lý và tư tưởng
khoa học phương Tây từ nhỏ đến lớn suốt cuộc đời. Các thế hệ từ đầu thế kỷ XX
chủ yếu là được đào tạo từ các trường học theo chương trình giáo dục Pháp hoặc
ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Kiến thức, phương pháp, tư tưởng của họ được
đúc khuôn phương Tây. Rốt cuộc họ trở nên xa lạ với văn hóa phương Đông mà họ
không hiểu, vì thế không chấp nhận, có chấp nhận kiểu nào chăng thì cũng là
miễn cưỡng để khỏi mang tiếng là vong bản.
Trong những điều
kiện ấy, Phật Giáo không được họ đón nhận, nếu không đến được với họ thì cũng
rất khó khăn và không có gì đảm bảo chắc chắn là đã được hiểu rõ.
Tôi tự lấy mình
làm dẫn chứng.
Khi đọc trong
sách về những công án thì cách suy nghĩ duy lý trong tôi phản ứng ngay. Thí dụ
tiếng vỗ của một bàn tay. Tại sao lại một bàn tay mà làm được tiếng vỗ? Muốn có
tiếng vỗ thì phải hai bàn tay vỗ vào nhau chứ. Hoặc nói về sắc không cũng vậy.
Làm sao vừa có vừa là không. Lý luận duy lý không thể chấp nhận dưới diện đó.
Khi nói về Nhân
quả, Luân hồi v.v... thì cái học vấn khoa học trong tôi phản đối quyết liệt.
Làm sao chứng minh những điều này một cách khoa học để được thuyết phục.
Đúng như một
truyện Phật Giáo đã kể: tôi như một ly nưóc đã đầy đến tận miệng những trí thức
khoa học, những luận lý duy lý, rót thêm vào thì nước chỉ tràn ra ngoài thôi.
Hơn thế nữa, thứ nước cũ và thứ nước mới lại khác nhau, đối kháng nhau không
thể hòa với nhau.
Muốn được tiếp
nhận được nước mới, phải đổ hết nước cũ, không để một chút cặn. Nhưng làm thế
nào thực hiện được, dù có muốn đi nữa. Trong tôi không phải chỉ là nước trong
ly, những trí thức luận lý, khoa học ấy đã tạo thành nhân cách tôi rồi.
Cái khó của người
trí thức hiện nay đến với đạo Phật là như vậy.
Đối với các thế
hệ trí thức trẻ tuổi còn khó hơn nữa. Các con, các cháu tôi sinh ra, lớn lên
trong thời đại khoa học kỹ thuật độc tôn, bá chủ này lại càng khó tiếp nhận đạo
Phật. Chỉ một chữ “từ bi”, một chữ “nhẫn” đã gây chúng một sự phản đối kịch
liệt. Chúng nhất quyết khẳng định - xin lỗi các vị - ấy là một triết lý chủ
bại, đưa đến tàn lụi, diệt vong. Chỉ khoa học kỹ thuật, kinh tế mới cứu nhân độ
thế được thôi. Quả thật, cái ý thức hệ của lớp trẻ nói chung bây giờ là như
vậy. Nói sao với họ?
Tôi thấy không
phải chỉ mới gần đây, mà đã từ nhiều năm qua, có những xu hướng hiện đại hóa
Phật Giáo, cả về nôi dung tư tưởng và phương pháp giáo dục.
Cập nhật hóa,
thích ứng, hòa nhập vốn là quy luật của tiến hóa. Đối tượng là những con người
cụ thể, những con người ngày nay, Phật Giáo cũng phải nói với họ bằng ngôn ngữ
ngày nay, không thể nào khác.
Nhưng tôi có sự
cảm nhận, chưa thật chính xác, về mấy vấn đề cần suy nghĩ.
Một là, tôi được
đọc, cũng ít thôi và chưa kỹ, một số sách của phương Tây, của phương Đông, của
Việt Nam, trong đó có cả Thiền Luận nổi tiếng của Suzuki, tôi thấy có những
điều cốt lõi, tinh túy của đạo Phật bị giản lược đi. Phải chăng vì những điều
ấy xa lạ, xa vời, khó cảm thụ đối với người đời nay. Nhưng, như thế có đúng với
chân diện mạo của đạo Phật không? Tôi không đủ tư cách và trình độ để trả lời,
xin đề đạt câu hỏi đến các vị.
Hai là như trên
đã nói, nói đạo là nói với từng con người cụ thể, trong những hoàn cảnh cụ thể,
ở vào những thời đại cụ thể, thuộc những vùng cụ thể, những nền văn hóa cụ thể,
những dân tộc cụ thể. Cho nên dường như có nhiều sự dị biệt, thậm chí đi đến
chỗ đối nghịch. Cái gốc thì là một, những cành nhánh thì cành là cành bống,
cành đông, cành tây, cành năm, cành bắc, càng lên cao càng lên ngọn càng rậm
rạp, đương nhiên như thế là phát triển và cây càng cao bóng càng cả, nhưng liệu
tất cả có phải từ gốc mà ra, hay có khi là tầm gửi sống nhờ vào cây. Không phải
cây, rồi lấn cành, có thể đến một lúc nào đó trông cây thì xum xuê, nhưng phần
lớn chỉ là tầm gửi, lúc ấy sẽ nói thế nào. Tôi mạo muội suy luận như vậy, có gì
thất thố mong quý vị lượng thứ, chỉ là có sự băn khoăn muốn xin lời trấn an của
các vị đó thôi.
Ba là, từ nhiều
thế kỷ qua, nói ngay ở Việt Nam thôi, đạo Phật đã bị các hệ triết học, các hệ
tư tưởng khác tấn công, phê phán (thí dụ các nho gia xưa và các nhà Tây học sau
này v.v...). Tất nhiên các nhà Phật học phải trả lời, phải tranh luận. Theo lô
gich học thì trả lời tức là đã chấp nhận cách đặt vấn đề của người ta, tranh
luận tức là phải dùng lý luận của người ta để phản bác lại, và như thế là đạo
Phật đã dời khỏi chỗ đứng của mình, từ bỏ phương pháp đặc thù của mình (tôi nói
rõ: trong những trường hợp trả lời, tranh luận) và tự đặt vào thế chống đỡ, và
nếu được phép, các vị không quở trách, tôi xin nói đạo Phật đã xa vào kế dụ
địch, như thế có bất lợi chăng? Tôi nghĩ đến một câu tục ngữ của dân gian rất
chất phác nhưng cũng rất sâu sắc: “Phật ở trên tòa, khi nào gà dám mổ mắt”. Cho
nên, theo ý riêng của tôi, Phật Giáo không cần trả lời, tranh luận.
Bốn là thời đại
hiện nay, khoa học kỹ thuật được một thế lực áp đảo, lên ngôi bá chủ. Tự nhiên
tất cả những hoạt động ý thức khác tự thấy muốn tồn tại phải xin làm chư hầu.
Bất cứ lĩnh vực nào khoa học cũng xâm nhập, bất cứ cái gì cũng phải được giải
thích bằng khoa học thì mới có sự thuyết phục. Khoa học là chân lý duy nhất,
tuyệt đối. Đạo đức, Văn học, Nghệ thuật v.v... và cả tôn giáo nữa cũng đều tự
biện hộ bằng khoa học, tự phát huy bằng phương pháp khoa học.
Như thế là sai.
Mỗi hoạt động tinh thần đều nhằm đáp ứng một trong nhiều nhu cầu của con người,
chúng có định vị rõ ràng của chúng trong bộ nào, chúng có phương thức vận động
đặc thù của chúng. Khoa học không phải là vạn năng, mà có giới hạn của nó, chí
ít thì hiện nay nó chưa đủ sức giải đáp được mọi vấn đề cuộc sống của con người
đặt ra.
Thế kỷ trước, nhà
triết học thực nghiệm Auguste Comte đã tuyên bố chủ quan và bồng bột: triết học
giải phóng nhân loại khỏi những sự khủng khiếp của tôn giáo, khoa học xác thực,
đề ra phương pháp thực nghiệm đã vượt qua sự hiểu biết triết học. Chính do vượt
từ thời đại này lên thời đại khác (tôn giáo, khoa học, siêu hình) mà nhân loại
tiến lên.
Chính các luận
điệu ấy, nổi tiếng chừng vài ba chục năm đã bị vượt. Khoa học hiện nay phát
triển cao hơn chính Auguste Comte nhiều, đã tỏ ra biết điều và khiêm tốn hơn
nhiều.
Các quan niệm tôn
giáo là di sản của thời kỳ mông muội càng sớm thanh toán càng tốt đã bị bác bỏ.
Kết luận được đông đảo các nhà khoa học tán thành là tôn giáo rất cần, ít nhất
cho sự định hướng phát triển văn hóa nhân loại và điều hòa những sự quá khích.
Lịch sử đã chứng minh điều đó và điều đó vẫn đúng trong tương lai.
Tôi đã có lần
nghe giáo sư Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, một nhà khoa học kỹ thuật lớn, hơn nữa một
nhà khoa học quân sự nổi tiếng nói: Coi như khoa học kỹ thuật ngày nay có một
khả năng rất lớn, làm gì cũng được, nhưng nói Cách mạng Khoa học kỹ thuật thì
khoa học phải được hiểu là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học nhân
văn và trước hết là triết học và mỹ học. Người ta vẫn phải biết ý nghĩa
của việc làm và làm gì thì cũng nhằm mục đích cho nhân loại sống đẹp. Cho nên
khoa học kỹ thuật phải được hướng dẫn bởi triết học và mỹ học.
Ý kiến thật sâu
sắc, và chúng ta có thể nói thêm: Và tôn giáo, vì nhân loại cần có niềm tin vào
cải thiện. Như thế cổ xe tam mã Chân-Thiện-Mỹ dẫn nhân loại đi lên.
Đề một bài thơ về
“Kinh Viên Giác”
Biết rằng mọi
tướng thảy đều hư
Nếu trụ vô dư
vướng hữu dư
Lời nói quên lời
liền liễu ngộ
Trong mơ kể mộng
chất thêm mơ
Hoa không muốn
quả sao thành quả
Ánh nắng đơm ngư
há được ngư
Nhiếp động là Thiền
Thiền lại động
Không Thiền chẳng
động ấy như như.
Phật lịch
2543-1999 Kỷ Mão
Sa Môn Thích
Thanh Kiểm dịch
Giáo sư Minh Chi
Bất cứ người nào
có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba
tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật
trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài
đời, trong cuộc sống thực tế.
Đạo Phật lý
thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất
nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và
đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này
là cõi Phật rồi.
Vì vậy, khi suy
nghĩ và nói tới khoảng cách đó qua các sự kiện thực tế, tôi không có mục đích
gì khác là tự nhắc nhủ mình và nhắc nhủ mọi người luôn luôn có ý thức về khoảng
cách đó và phấn đấu hết sức mình để thu hẹp khoảng cách đó.
Chính với tinh
thần và thái độ như vậy mà tôi xin có một vài suy nghĩ về một sự đổi mới phương
pháp, hình thức và nội dung của giáo dục Phật Giáo trong thời đại hiện nay.
1. Đổi mới về
Hình Thức và Phương Pháp Giáo Dục Phật Giáo:
a. Trong giáo dục
Phật Giáo, thân giáo là quan trọng hàng đầu.
Điều này ai cũng
biết cho nên không cần nói nhiều. Cái khó là chúng ta không làm, không muốn làm
hay không làm được.
Tôi cho rằng, một
trong những nguyên nhân khiến cho đạo không được truyền bá được vào đời một
cách rộng rãi, khiến cho giáo dục Phật Giáo có hiệu quả hạn chế là vì chúng ta
coi nhẹ thân giáo, tức là những người làm chức năng giáo dục Phật Giáo, phải
thực hành từ đó gợi cho người khác thực hành hàng ngày, hàng giây phút những
giá trị cao cả của đạo Phật trong cuộc sống của mình.
b. Mở rộng đội
ngũ giáo dục.
Cho đến nay,
chúng ta thường hạn chế số người làm chức năng giáo dục trong Tăng sĩ, và giờ
giáo dục Phật Giáo trong các buổi thuyết pháp hay là lên lớp ở các trường Phật
học Trung cấp và Cao cấp. Một quan điểm như vậy làm giảm sút hiệu quả của giáo
dục Phật Giáo rất nhiều. Tất cả mọi người không kể là xuất gia hay tại gia, một
khi đã tin vào chân lý của những giá trị triết lý đạo đức của đạo Phật và sống
theo đúng những giá trị đó, đều mặc nhiên trở thành những nhà giáo dục Phật
Giáo, bằng thân giáo, bằng tư tưởng, hành vi và lời nói của mình. Mọi người hãy
có ý thức đầy đủ về điều này, và không nên nghe những người nói rằng truyền
giáo dục thì phải có văn bằng, học vị, học hàm phải nói cho hùng hồn, điệu bộ
cho oai vệ. Suy nghĩ như vậy sẽ lầm to và rất có hại cho sự nghiệp truyền bá
của đạo Phật.
Trần Thái Tông,
một ông vua Phật tử của đời Trần, đã viết trong Khóa Hư Lục rằng:
“Mặc vấn đại ẩn
tiểu ẩn, hưu biệt xuất gia tại gia, bất câu Tăng tục, chỉ yếu biện tâm, bản vô
nam nữ, hà tu trước tướng”. (Không phân biệt là sống giữa đời hay sống ẩn dật
trong rừng, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Tăng hay tục chỉ cốt biện
tâm. Vốn không nam nữ, sao lại còn chấp tướng?)
Có thể nói đạo ý
bình đẳng của Phật không có phân biệt đối đãi xuất gia và tại gia, nam và nữ,
già và trẻ. Tất cả mọi người đều có mầm giác ngộ sẵn có ở trong mình, tức Phật
tánh, cho nên đều có thể thành Phật. Đạo lý bình đẳng này thấy rõ trong một số
Kinh Đại Thừa như Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man đã được dịch ra tiếng Việt.
Duy Ma Cật là một Trưởng lão có gia đình, nhưng trình độ giác ngộ của ông ngang
với Bồ Tát Văn Thù. Phu nhân Thắng Ma cũng có một vị trí cao tương tự. Trong
Kinh Pháp Hoa ở phẩm 26, một Long Nữ mới 8 tuổi, nhờ nghe Ngài Văn Thù thuyết
pháp mà trở thành Đại Bồ Tát, và trong nháy mắt dùng thần thông biến ngay thành
nam giới rồi thành Phật. Những truyện như vậy có thể không được Phật Giáo Nam
tông chấp nhận, nhưng đứng về tinh thần mà nói, chúng nói lên được truyền thống
bình đẳng và phá chấp của đạo Phật, và truyền thống này có ngay từ thời đức
Phật còn tại thế.
Phật giáo Việt
Nam từng có Ni sư Diệu Nhân đời Lý là một Thiền sư nổi tiếng thuộc dòng Thiền
Tỳ Ny Đa Lưu Chi, có Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều là những cư sĩ
và là nhà Phật học xuất sắc đời Trần. Học trò của hai vị này gồm cả Tăng sĩ và
cư sĩ. Một học trò xuất sắc của Tuệ Trung chính là Trần Nhân Tông, là Tổ thứ
nhất của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Một học trò thứ hai của Tuệ Trung là
Pháp Loa, là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm và là người đứng ra san định
bản thảo Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, đã được cư sĩ Trúc Thiên dịch ra Việt
văn. Trong thời hiện đại, chúng ta có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thẩm, là một nhà
Phật học lớn, nhiều Tăng sĩ vốn là học trò của ông, nay giữ nhiều vị trí chủ
chốt trong Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Ở nước Phật Giáo
nào cũng vậy, cư sĩ bao giờ cũng chiếm số đông, họ lại là người có kiến thức
thế tục khá rộng, nếu họ có thêm kiến thức nội điển nữa thì họ sẽ trở thành
những nhà giáo dục Phật Giáo, những nhà truyền giáo rất tốt, rất có hiệu quả.
Tăng sĩ vốn số lượng ít hơn, tất nhiên cũng làm chức năng giáo dục và truyền
giáo, nhưng trước hết họ là những người duy trì kỷ cương xuất thế của đạo, và
điều này cũng rất quan trọng trong cuộc sống văn minh vật chất của thế giới
hiện nay. Nói tóm lại, phải thu hút rộng rãi tầng lớp cư sĩ vào đội ngũ giáo
dục và truyền giáo của đạo Phật. Đó là một trong những biện pháp chủ chốt để
rút ngắn lại khoảng cách giữa đạo Phật lý thuyết và đạo Phật trong thực tế,
trong đời sống.
c. Một vấn đề
mang tính cấp thời là dùng rộng rãi tiếng dân tộc, tức Tiếng Việt, trong công
tác giáo dục và truyền giáo, bớt dùng chữ Hán, nhất là đối với các kinh Nhật
Tụng. Các bản dịch của Đại Tạng kinh Việt Nam phải được nhuận văn thế nào hoặc
đông đảo Phật tử đọc và hiểu được, và áp dụng được nội dung và đời sống hàng
ngày, vấn đề này quá rõ cho nên tôi không nói nhiều.
II. Giáo dục
hướng nội và đặc biệt coi trọng môn Duy Thức học
Về nội dung giáo
dục, phải rất chú trọng môn Tâm lý học Phật Giáo, tức là môn Duy thức học. Cho
đến nay ở các nước phát triển của phương Tây, người ta chú trọng nghiên cứu thế
giới bên ngoài hơn là nội tâm con người. Nói thế giới bên ngoài bao gồm
cả xã hội và thiên nhiên. Do đó mà các ngành Khoa học tự nhiên ở phương Tây rất
phát triển, tạo ra nhiều thành tựu thần kỳ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và
công nghệ, dẫn tới một sự tăng trưởng vũ bão của lực lượng sản xuất. Thành công
đó của khoa học kỹ thuật phương Tây không thể phủ nhận được. Thế nhưng trong
các ngành Khoa học xã hội thì chỉ có ngành Xã hội học (Sociology) là phát triển
tương đối. Ngay Mác, khi dẫn chứng một điểm trong Luận cương của Phơ Bách cũng
khẳng định con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nhưng trên thực tế,
theo quan điểm của triết học và tôn giáo phương Đông, đặc biệt là Phật Giáo thì
nội tâm con người là cả một thế giới mênh mông sâu thẳm, mà mãi tới thế kỷ XX,
Sigmund Freud mới sơ bộ phát hiện ra, và trên cơ sở đó xây dựng môn Phân tâm học
nổi tiếng của ông.
Chúng ta biết là
để trình bày môn Phân tâm học, một môn học rất mới mẻ đối với người phương Tây,
Freud đả phải sáng tạo ra một pho ngữ vựng Phân tâm học với những danh từ, động
từ và hình dung từ rất lạ tai v.v... Thế nhưng môn Tâm lý học Phật Giáo, cụ thể
là môn Duy Thức học Phật Giáo, so với môn Phân tâm học của Freud, đã phân tích
nội tâm của con người sâu sắc và chi tiết hơn nhiều, khiến cho những học trò
danh tiếng của Freud như Formn, Carl Jung đã theo nghiên cứu Phật học, và trở thành
môn đệ của Thiền sư Nhật Bản Suzuki. (Xem Thiền và Phân tâm học - các bản Anh
và Việt văn).
Vì không chú
trọng đời sống nội tâm, cho nên ở các nước công nghiệp rất phát triển của
phương Tây, con người có thể rất nhiều tiền và đầy đủ mọi tiện nghi của đời
sống nhưng lại thiếu đi sự bình an của nội tâm và do đó cũng ít có hạnh phúc.
Một nhà báo người Mỹ nói: “Về vật lý học, chúng ta đang ở thời đại nguyên tử;
về mặt tâm lý học, chúng ta đang ở thời đại đồ đá”. Một hình ảnh khác có sức
gợi cảm mạnh hơn, là hình ảnh của một con người, một chân thì buộc vào chiếc
máy bay phản lực, còn chân kia thì buộc vào một chiếc xe bò kéo.
Sự mất thăng bằng
giữa Tâm lý học (hết sức lạc hậu) và các môn Khoa học tự nhiên, đặc biệt là Vật
lý học (hết sức phát triển), giữa nội tâm tán loạn hôn mê vì dục vọng và ngoại
cảnh đầy cám dỗ, kích thích và diễn biến cực kỳ nhanh chóng (thời đại hiện nay
là thời đại của tốc độ) là nguyên nhân của bao nhiêu tai nạn khủng khiếp, bao
nhiêu hiện tượng bạo lực, bạo hành khủng bố thật không sao hiểu được, đang diễn
ra hiện nay, có thể nói là hàng ngày. Những chuyện giết người hàng loạt một
cách dã man, không phải chỉ xảy ra ở những nước lạc hậu, kém văn hóa như ở
Campuchia thời Pôn Pốt, ở Rwanda và Burundi tại Châu Phi hiện nay mà ngay ở trung
tâm Châu Âu, ở các nước Nam Tư cũ, ở Nga tại Tchesnia, ở Mỹ tại Okalahoma, và ở
Nhật trong các vụ đầu độc dưới tàu điện ngầm v.v...
Duy Thức và Trung
Quán là hai đỉnh cao của Phật Giáo Đại Thừa. Hai môn học này bổ sung cho nhau
thay vì mâu thuẫn chống đối với nhau như một vài người lầm tưởng. Nếu môn học
Trung Quán chú ý nhiều tới sự phân tích logic và tư duy biện chứng, do đó rất
thích hợp với các phương pháp khoa học hiện đại, thì môn Duy Thức học lại chú
trọng phân tích nội tâm, kết hợp với t tập Thiền định. Không phải không có lý
do mà Tông Duy Thức còn mang tên Du Già tông. Du Già ha Yoga là một tên gọi
khác của Thiền định, nhưng ý nghĩa của nó có phần rộng hơn.
Giảng môn Duy
Thức mà không biết kết hợp với tu tập thiền định thì sẽ biến thành mnô học có
tính kinh viện và sách vở. Chính trong những giờ phút ngồi thiền và thực hành
thiền quán hay nội quán mà hành giả thấy mọi sự kiện ngoại cảnh và nội tâm một
cách minh bạch rõ ràng, đúng như chúng tồn tại.
III. Giáo dục về
tinh thần và phương pháp nghiên cứu khoa học, đề cao tính lý trí trong giáo dục
Phật Giáo, chống mọi hình thức giáo điều, cũng như mê tín, cuồng tín.
Thời đại hiện nay
là thời đại của khoa học và dân chủ. Phương pháp giáo dục Phật Giáo, nếu đi
ngược lại tinh thần khoa học và dân chủ, nhất định sẽ kém hiệu quả, thậm chí
đem lại hậu quả ngược với ý muốn dự định của chúng ta. Nghĩa là tuyên truyền
đạo Phật mà trở lại phản tuyên truyền đạo Phật, biến đạo Phật thành một trò
cười cho số đông.
Gần đây có người
thường nhấn mạnh tính phi lý, tính trái thường của những ngữ Thiền. Đúng là có
một số câu nói nhà Thiền hay là có những hành vi của một số Thiền sư là khó
hiểu, thậm chí không thể hiểu được, đại loạì như câu của Thiền Phái Lâm Tế:
“Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” v.v... Tôi không dám phê bình những câu,
những lời Thiền như vậy, mà tôi tin là chỉ có giá trị giáo dục nhất định, trong
những trường hợp cá biệt nhất định giữa Thiền sư và Thiền sinh, giữa thầy và
trò. Tuy nhiên, những câu kiểu như vậy không có một giá trị giáo dục phổ biến.
Đạo Phật khác với
các tôn giáo Thần khải, không bao giờ phủ định lý trí như là chuẩn mực đáng tin
cậy của Chân lý. Con người là một động vật có lý trí. Tất nhiên con người còn
có tình cảm và ý chí. Nhưng ở nơi con người tình cảm và ý chí phải được soi sáng
và hướng dẫn bởi lý trí. Với lý trí, con người phải học lập luận một cách logic
chặt chẽ, sử dụng thông thạo các thao tác như suy lý diễn dịch và quy nạp. Do
đó, môn Logic học Phật Giáo (Nhân Minh học) phải được đưa vào dạy ở các trường
Phật học Trung cấp và Cao cấp). Đó là điều hiện nay chúng ta chưa làm, thậm chí
ngay cả đối với trường Phật học Cao cấp, chứ đừng nói gì ở các trường Trung
cấp. Khi nói và viết, khi suy tư, con người phải biết lập luận một cách logic,
nghĩa là có lý có lẽ, chứ không thể suy nghĩ lung tung, viết và nói lung tung,
thậm chí cả trong khi giảng dạy.
Nhà bác học
Einstein nói: “Tôn giáo mà không có khoa học sẽ là tôn giáo mù, khoa học mà
không có tôn giáo thì sẽ là khoa học què”.
Khi Einstein nói
tôn giáo mà không có khoa học là tôn giáo mù, theo tôi là Einstein muốn nói tới
tôn giáo không phải chỉ là lĩnh vực của đức tin thuần tuý, yêu cầu không được
bàn cãi, suy tư , hoài nghi. Tuyệt đối không phải như vậy. Chính kiểu lập luận
như vậy biến tín đồ thành một đám người mù, nhắm mắt làm theo chỉ thị của những
người tự xưng là Đạo sư, hay là Vô Thượng sư của họ, nhưng trên thực tế đôi khi
chỉ là những phần tử cơ hội, có thể không từ một tội ác nào mà không làm, như
Đạo sư của Giáo pháp Aum ở Nhật, đã cho đầu độc hàng loạt người vô tội, hay là
như một số giáo phái ở Mỹ, tổ chức những vụ tập sát tập thể v.v...
Đạo Phật ngay từ
đầu đề cao vai trò của trí tuệ thay vì niềm tin mù quáng, Phật từng nói tiếp
thu giáo pháp của Phật mà không hiểu cũng không khác gì một cái thìa đựng mật,
nhưng không thể biết mùi vị của mật là gì, Phật lại nói “Chớ có tiếp thu giáo
pháp của ta chỉ vì kính nể Ta, trái lại hãy thử thách nó như là lửa thử vàng
vậy”.
Đạo Phật không
bao giờ tuyên bố vô lý như thế này: “Điều này có thể tin được, vì rằng quá ư vô
lý, điều này là đúng vì không có khả năng xảy ra”. Những điều đó logic học Phật
Giáo, tức Nhân minh học, gọi là thế gian tương vi. Đạo Phật khuyến khích mọi
người hãy lập luận một cách có logic, dựa trên những sự kiện thực tế của
cuộc sống hàng ngày. Một lần Phật nói với một người Bà la môn: “Có những Bà la
môn và Sa môn nói rằng ngày là đêm và đêm là ngày, nhưng Ta, này Bà la môn, Ta
nói đêm là đêm và ngày là ngày”.
Hiện nay có một
số ít người, kể cả một số trí thức, thích kể những chuyện lạ về cõi âm, và cũng
thích bàn về những quyền năng siêu nhiên như bay trên không, đi trên nước, một
thân biến thành nhiều thân, hô phong hoán vũ, sai khiến qủy thần.
Trong phương pháp
giáo dục Phật Giáo, chúng ta xử lý những vấn đề đó như thế nào?
Trước hết đạo
Phật thừa nhận có nhiều cõi sống khác nhau với cõi người. Có những cõi sống cao
cấp hơn cõi người, mà sách Phật thường gọi chung là chư Thiên. Có những cõi
Trời ở xa, thậm chí rất xa cõi Người trên trái đất này, nhưng cũng có những cõi
Trời ở tương đối gần. Lại có những cõi sống thấp hơn cõi Người, như cõi sống
của loài vật, cõi Qủy đói và cõi Địa ngục. Đạo Phật cũng thừa nhận con người
sau khi chết, mang một cái thân tạm thời gọi là thân Trung ấm, làm bằng loại
vật chất tế nhị, cho nên mắt người không thấy được. Các thân Trung ấm, sống tối
đa 49 ngày, rồi theo nghiệp mà tái sanh hoặc trở lại làm người hay là qua một
cõi khác hoặc thấp hơn hoặc cao hơn cõi Người. Đó là một mặt của vấn đề. Tức là
đạo Phật thừa nhận có những chúng sinh khác với con người, những cõi sống khác
vói cõi Người. Còn gọi họ, và cõi sống của họ bằng tên gọi gì thì chỉ là vấn đề
quy ước mà thôi.
Nhưng một số vấn
đề khác mà đạo Phật rất nhấn mạnh, chúng sinh ở các cõi sống khác nhau, do
nghiệp khác nhau, giác quan khác nhau, cho nên cũng không có quan hệ trực tiếp
với nhau gì (trong các cõi sống khác, có lẽ chỉ có loài vật [animal] là có quan
hệ trực tiếp với cõi người hơn cả). Phúc hay họa đến cho con người là do con
người tạo nghiệp tương xứng, chứ không phải do quỷ thần. Cho nên, điều người
phải làm, không phải là cúng bái qủy thần để được ban phước hay tránh họa. Họa
hay phúc đều do người chứ không phải do qủy thần. Nếu chúng ta hàng ngày làm
điều thiện, nói thiện, nghĩ thiện, nghĩa là thường xuyên làm việc thiện thì
chính quỷ thần cũng kính nể ta, bảo vệ ta, còn nếu chúng ta hàng ngày làm ác,
nói ác, nghĩ ác, thì chúng ta sẽ mang họa, không chóng thì chày, không có quỷ
thần nào cứu vớt chúng ta được. Đó là thuyết Nghiệp của đạo Phật, một thuyết
rất khoa học và công bằng.
Theo tinh thần
của đạo Phật, thì không những quỷ thần không thể can thiệp vào quy luật nghiệp
báo, mà các con người đối đãi với nhau cũng vậy. Người thiện thật sự sống
thiện, nay cũng như xưa thì người ác muốn hại cũng không làm gì được. Người ác,
muốn hại người thiện cũng như kẻ ngu ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt, hay là
đi ngược gió mà tung bụi ... người thiện sống giữa đời ác độc, cũng như một bàn
tay không thương tích nhúng vào một bát thuốc độc, không có quan hệ gì hết.
Còn về vấn đề
thần thông và quyền năng siêu nhiên, đạo Phật có thể đó là sản phẩm của công
phu thiền định, là một cái gì tự nhiên đến với người tu tập thiền định, trong
đạo Phật cũng như ở các đạo khác. Thế nhưng trong các loại thần thông, thì loại
thần thông mà Phật đề cao nhất là “Giáo hóa thần thông”, hay là nếu nói theo từ
ngữ thông thường là “giáo dục thần thông”. Phật nói đó mới là thần thông thực
sự, chuyển hóa con người ác thành con người thiện, con người ngu thành con
người có trí, người dữ thành người hiền ... Còn các loại thần thông khác như
bay trên không, đi trên nước, chui xuống đất ... đức Phật đều xem như những trò
ảo thuật mà đức Phật khuyên học trò mình không nên làm.
Đạo Phật là đạo
của trí tuệ, của tình thương rộng lớn. Đạo Phật đem lại cho mọi người nhiệt
tình sống cuộc sống đạo đức, sống cuộc sống tâm linh cao cả, cuộc sống trong
sáng, thanh tịnh, đầy lòng bao dung ... Đạo Phật, cũng như bản thân đức Phật,
luôn khuyên mọi người hãy tin ở sức mình, hãy tin ở mình, hãy tự thắp đuốc lên
mà đi ... Chớ có vội tin vì đó là truyền thống do nhiều thế hệ để lại, chớ tin
vì đó là tin đồn, được nhiều người nói tới, chớ có tin vì đó là điều đã viết
thành sách bởi một nhà hiền triết cổ xưa, chớ có tin vì đó là điều anh thích
thú, cho là tân kỳ, và nghĩ rằng đó phải là do thần hay một vật kỳ diệu nào
truyền đạt lại. Chỉ sau khi quan sát và phân tích, thấy rằng đó là điều hợp với
lý trí, đem lại sự tốt lành, có lợi cho bản thân anh và cho mọi người, thì hãy
chấp nhận điều đó và sống theo điều đó” (Tăng Chi I, Kinh Kalama - Các vị ở
Kesaputta).
Đó quả là một lời
dạy đầy minh triết. Nếu tất cả mọi người đều vâng theo lời dạy minh triết đó,
sống tỉnh táo, luôn quan sát và phân tích, dựa vững vàng vào các dữ kiện thực
tế của đời sống, kể cả đời sống nội tâm, thì lịch sử nhân loại, kể cả quá khứ
và hiện tại, sẽ giảm bớt bao nhiêu tội ác, tang tóc và đau thương, bao nhiêu
máu bớt chảy, bao nhiêu nước mắt đỡ tuôn rơi, bao nhiêu quả tim đỡ tan nát ...
Có người nói đạo
Phật là tôn giáo của niềm tin nhưng không phải là niêm tin ở Thượng đế mà là
niềm tin ở con người, ở lý trí của con người biết phán xét phải trái, ở trái
tim của con người biết yêu thương đồng loại, ở ý chí của con người biết vương
lên cái tốt cái thiện.
Đạo Phật là như
vậy, và toàn bộ giáo dục Phật Giáo trong thời hiện đại phải đổi mới như vậy,
nhằm mục đích như vậy, theo hướng như vậy. Đó sẽ là đạo Phật của tương lai, của
thế kể XXI.
TRONG GIỚI LUẬT
PHẬT GIÁO
Giáo sư Cao Huy
Thuần
... Tôi vừa nói:
Hòa có mặt tích cực, có mặt tiêu cực.
Hòa có khi làm
nhũn cá tính, không phát huy được sáng kiến, trốn tránh trách nhiệm. lẫn vào
đám đông. Tôi ở Pháp cho nên biết rằng mục đích giáo dục ở Tây phương là phát
huy sáng kiến, đặc tính cá nhân, dám nói khác, làm khác. Tôi cũng biết rằng quy
luật cạnh tranh là đạp lên chân nhau mà bước. Thú thực, đồng nghiệp của tôi
bước lên chân tôi có khi nát cả chân. Đây quả là một vấn đề xung khắc văn hóa
Đông Tây. Chính tôi không biết phải dạy con tôi thế nào.
Trong một tạp chí
ăn khách ở Pháp (Express, 30-7/5-8-1998) tôi có đọc một bài phỏng vấn một vị
Tăng Tây Tạng có tiếng, trí thức, đồng thời cũng là một Giáo sư về văn hóa Tây
Tạng ở đại học Pháp: Dagpo Rinpoche. Câu hỏi mở đầu với chữ Khổ:
- Các tôn giáo Ki
tô gán cho sự khổ một giá trị cứu rỗi. Người ta giải thích rằng khổ giúp ta đạt
đến một tương lai tốt hơn.
Trả lời:
- Phật Giáo không
nghĩ như vậy. Đối với Phật Giáo, khổ không bao giờ được như hoặc được trình bày
như một giá tri. Khổ là phải diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế: ai cũng nằm dưới
luật Khổ. Thế thì thay vì để cho khổ dẫm nát, ta hãy dùng khổ để vươn lên; dùng
khổ như là một khí cụ để học cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn. Sửa đổi
bên trong của mình toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất cần thiết để phát
triển từ bi và có lẽ, sau đó, một thái độ vị tha: lúc nào cũng nhường phần
thắng cho người khác và hạ mình xuống hàng thứ hai. Người khác đứng đầu, ưu
tiên.
Vị Tăng này là
giáo sư, và tất nhiên phải lên trật, lên ngạch, nghĩa là phải dẫm lên chân của
người khác chứ!
Do đó mà có câu
hỏi tiếp theo:
- Đồng nghiệp của
ông muốn chiếm chỗ của ông. Ông nói với người ấy thế này chăng: “O.K, tôi xuống
hàng thứ hai? Có thể nào dung hòa từ bi với cạnh tranh?
Trả lời:
- Cạnh tranh là
cái mặt đối chọi lại với những gì tôi vừa nói, bởi vì dựa trên trên quyền lợi
cá nhân, nhưng không phải vì, về mặt tâm linh, tôi nhường chỗ thắng cho người
khác mà tôi nhất thiết phải biến mình thành Thánh tử đạo và để cho kẻ khác dẫm
chân! Hy sinh về mặt vật chất cho người khác, điều đó chẳng đem lợi lộc gì đến
cho người khác cả. Thật ra, điều mà ta cần thay đổi là cách suy nghĩ của ta:
trong trường hợp nghề nghiệp chẳng hạn, thay vì trước đây chúng ta tranh giành
nhau chỉ vì mục tiêu vị kỷ, bây giờ hãy thử tập hành động vì lợi ích toàn thể
và làm theo những quy tắc đạo đức.
Tôi nghĩ rằng vị
Tăng đó sống thực như vậy. Và tôi phục. Vì sao? Vì vị Tăng sống với tục mà vẫn
sống Đạo được như thường, là chuyện quá khó.
Giới luật Phật
Giáo là giới luật của Tăng và giữa Tăng với Tăng, nghĩa là cùng ở trong một
đoàn thể thuần nhất, cùng Đạo, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau, cùng tu,
cùng nhằm mục đích như nhau. Trong một đoàn thể thần nhất như vậy, chữ Hòa sẽ
không còn mặt tiêu cực nữa, mà chỉ còn mặt tích cực. Nói như hiến pháp của Vua
Thánh Đức, trong một đoàn thể thuần nhất như vậy. Hòa quả là có địa vị tối
thượng. Không có Hòa thì không làm gì được hết.
Tôi đọc quyển
Cương Yếu Giới Luật của Hòa thượng Thiện Siêu trang 69 nói về Lục Hòa, trang 84
và trước đó nói về phá Hòa hợp Tăng, trang 107 về Giới trường, trang, 137, 138
về Kiết ma phi tướng. Hòa thượng nhấn mạnh: Hòa hợp triệt để, chứ không phải
chỉ là thiểu số phục tùng đa số.
Trang 132: Thuyết
giới tự tứ cốt là Hòa, nếu không Hòa thì làm sao mà thuyết! Và Tăng Hòa ở đây
là gì? Là tránh bốn việc: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và sự tránh.
Mỗi một việc ngôn
tránh là vĩ đại rồi. Miệng mồm người ta vốn là đầu mối của bất hòa.
Ở trang 138, cũng
vẫn nói về Kiết ma phi tướng, nói “hòa hợp triệt để”, cũng chưa đủ, Hòa thượng
còn thêm: “Hòa hợp triệt để 100% mới hợp lệ”. Cho nên, Hòa là một trong bảy yếu
tố để một chúng Tỳ kheo hưng thịnh. Thế nào là một chúng Tỳ kheo hưng thịnh và
một chúng Tỳ kheo thối đọa? Tôi đọc Tăng Chi Bộ Kinh do Thượng tọa Chơn Thiện
trích dẫn (trang 438- Phật học khái luận): “Một chúng Tỳ kheo hưng thịnh
khi nào thực hiện được 7 điều:
Điều 1: Chúng Tỳ
kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo.
Điều 2: Tụ họp
trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng trong niệm
đoàn kết”.
Nói chữ hòa trong
Phật Giáo có lẽ nói mãi không cùng. Trung đạo là gì, nếu không phải là hòa,
không phải chỉ hòa với chung quanh mà còn hòa với chính chúng ta. Trong Tăng
Chi Bộ Kinh mà tôi vừa trích, Phật dạy một cư sĩ như thế này, khi ông ấy hỏi
làm thế nào để một cư sĩ tại gia sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và
hạnh phúc an lạc trong tương lai: “Này cư sĩ, có bốn pháp đưa đến hạnh phúc
hiện tại, đó là: đầy đủ sự tháo vát, đầy đủ sự phòng hộ, làm bạn với thiện,
sống thăng băng điều hòa”.
Thế nào là sống
thăng bằng điều hòa? Không phung phí, không bủn xỉn.
Từ chuyện nhỏ
nhặt thường tình đến chuyện triết lý cao xa, ở đâu cũng thấy chữ Hòa. Cho nên
tôi phải nói dài.
Trích
“Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta” Giáo sư Cao Huy Thuần, Đại học
Amiens, Pháp.
CẢM NHẬN QUA QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY TĂNG NI SINH
NĂM THỨ TƯ
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TC. HCM (^)
Giáo sư Trương
Quang Dũng
Giảng viên môn
Khoa Học Quản Lý
Khi được nhà
trường phân công giảng dạy môn Khoa học quản lý cho Tăng Ni sinh năm thứ
4-Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon, tôi đã có nhiều lo lắng bởi các học
viên của lớp thật là đặc biệt và rất lạ lẫm đối với tôi. Tôi luôn suy nghĩ và
tự hỏi rằng, liệu giữa người đứng lớp và người học trò có tìm được tiếng nói
chung một số cách nhìn nhận, giải quyết những vấn đề cụ thể về công tác quản lý
hay không? Nhưng rồi với trách nhiệm của một giảng viên và lòng tôn trọng đối
với Ban Đại diện lớp học, với các học viên là các nhà tu hành đã làm cho tôi
mạnh dạn và tự tin khi đứng trên bục giảng.
Qua những giờ lên
lớp, trao đổi, tọa đàm, tiếp xúc với cá học viên cả trong và ngoài giờ học, qua
quá trình hướng dẫn một số luận văn, tôi đã khám phá ra nhiều điều thú vị mới
mẻ: Đó là những học viên thông minh, chăm chỉ, ham hiểu biết, vừa nghiêm túc
trong học tập, vừa rất chan hòa, mẫu mực trong lối sống.
Điều làm tôi mừng
nhất là qua thời gian học tập, giữa tôi và các học viên đã tìm được sự quan tâm
chung: đó là kho tàng trí thức vô tận của nhân loại mà tôi và các học viên đều
mong muốn khám phá. Đồng thời tôi cũng nhận thấy rằng: những gì tôi đã cố gắng
đem lại cho các học viên của lớp học này có lẽ còn ít ỏi so với những gì
tôi thu nhận được, đó là sự tận tình chu đáo của Ban Đại diện lớp học, của đội
ngũ nhân viên Văn phòng Học Viện, đó là không khí học tập nghiêm túc hào hứng,
lòng say mê kiến thức của các học viên ... và lớn hơn tất cả, lớp học đã giúp
tôi hiểu thêm những con người ở một môi trường mà trước đây tôi chưa có điều
kiện hiểu hết.
Xin chân thành
cảm ơn những thành viên Ban Đại diện lớp học và toàn thể các học viên, những
người thực sự đã đem đến cho tôi một niềm hạnh phúc mới trong sự nghiệp giảng
dạy của mình.
Saigon, tháng 05
năm 2001.
Giáo sư Tiến sĩ
Trần Văn Khê
Trên thế giới về
cách tán tụng có ba trường phái:
- Bắc Tông hay
Đại thừa gồm có Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh văn
bằng tiếng Phạn (Sanskrit) để nguyên tiếng Phạn, phiên âm ra bằng tiếng Trung
Quốc, đọc theo cách phát âm của người Trung Quốc, thì gần giống âm tiếng Phạn,
nhưng khi đọc chữ phiên âm theo cách đọc của mỗi nước Triều Tiên, Nhật Bản hay
Việt Nam thì rất xa âm tiếng Phạn, như bài chú Vãng Sanh (Nam mô a di đà bà dạ
v.v...) Có khi tiếng Phạn dịch ra tiếng Trung Quốc, viết lại bằng chữ Hán như A
Di Đà kinh, Tâm kinh Bát Nhã v.v...
- Nam Tông hay
Tiểu thừa gồm các nước Sri Lanka, (Tích Lan), Thái Lan, Cao Miên (Campuchia),
Lào, Kinh chép bằng chữ Pàli, đọc theo âm Pàli, không dịch ra tiếng bổn xứ.
- Mật Tông (Tây
Tạng, Mông Cổ) kinh gồm những mật ngôn đọc theo một giọng thật trầm.
Sau khi nghe qua
ba cách tụng kinh, chúng ta thấy rằng cách tán tụng trong truyền thống Việt Nam
đứng trong truyền thống Bắc Tông.
Sau khi nghe qua
cách niệm “Nam mô A Di Đà Phật" trong các nước Đông Á, nghe qua vài bài
tụng như chú Lăng Nghiêm, kệ Khai kinh v.v... chúng tôi có những nhận xét sơ bộ
sau đây:
1.- Không có một
thể nhạc Phật Giáo chung cho các nước Đông Á, như cách hát “chant grégorien”
chung cho các nước Tây Âu, Pháp, Ý, Tây Ban Nha v.v... Lời kinh giống nhau
nhưng nét nhạc của cách tụng, tán tuỳ mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi.
2.- Mặc dù đạo
Phật thành lập từ Ấn Độ, mặc dù một số kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước
Đông Á, nét nhạc trong các bài tụng, bài tán trong truyền thống Việt Nam không
chịu ảnh hưởng của Ấn Độ hay Trung Quốc.
3.- Trong nước
Việt Nam, nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng, mà
thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu
thức của tiếng hát ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng.
4.- Có hai điệu
chính thức được dùng: điệu Thiền (như hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử
miền Nam) và điệu Ai. Điệu thay đổi tùy theo nội dung của bài tán.
Như bài tán “Dương
chi tịnh thủy” ca ngợi Đức Quan Thế Âm không có chi buồn.
“Dương chi tịnh thủy
Biến sái tam thiên
Tánh không bát đức lợi nhân thiên
Pháp giới quảng tăng điên
Diệt tội tiêu khiên
Hỏa diệm hỏa hồng liên”.
Khi nước cam lộ
được nhành dương liễu (từ Bồ Tát) rải xuống trần, một giọt biến thành ba ngàn
giọt rửa sạch tội lỗi oan khiên. Núi lửa hóa thành bông sen hồng. Bài tán đó
được tán theo điệu Thiền.
Nhưng khi tán bài
tán Nhất điện” có những câu:
“Thân hình bào
ảnh tợ ngân sương. Mạng tợ ngân sương ...” Thân hình chúng ta như hạt sương
trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng. Nhớ tới cái
mong manh của cuộc đời nên bài tán được tán theo điệu Ai.
Điệu thức này
cũng tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi.
Như kệ Khai kinh
hay tụng kinh A Di Đà, trong chùa tụng khác, mà trong một đám tang tụng khác.
Từ thực tế trên, có thể kết luận: Cách tán, tụng trong truyền thống Phật Giáo
Việt Nam rất gần gới cách tán, tụng ở các nước trong phái Bắc tông.
Nhạc Phật Giáo
Việt Nam bắt nguồn từ nhạc đầu tiên Việt Nam, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc
thính phòng, nhạc sân khấu và nhạc lễ trong cung đình Việt Nam.
VÀI ĐẶC TÍNH CỦA
ÂM NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
1) Âm nhạc Phật
Giáo Việt Nam là một loại Lễ nhạc:
Nhạc đi đôi với
Lễ, chỉ được tấu trong khi hành lễ, chớ không phải chỉ để nghe cho vui tai. Mỗi
nét nhạc, mỗi bản nhạc đều có liên quan đến một bài kinh, hay một buổi lễ, mục
đích để tạo một bầu không khí trang nghiêm, dẫn con người đi sâu vào cuộc sống
tâm linh, để hiểu thấu nghĩa sâu xa của những câu kinh và thấm nhuần giáo lý.
Trong đời sống
thường nhật tại các chùa, mỗi ngày thường có ba thời kinh: sáng từ 4 giờ đến 5
giờ, trưa cúng ngọ 12 giờ, và tối 6,7 giờ.
Mỗi lần đều có
chuông báo chúng gọi Tăng Ni.
Mỗi thời đều có
những bài tụng hay tán riêng.
Như trong thời
sáng thì có kệ Dâng hương, chú Lăng Nghiêm, Thập chú, Bát Nhã, Tâm kinh, niệm
danh hiệu Phật Thích Ca 108 lần, rồi Phát nguyện, Hồi hướng.
Trong thời tối,
thiên về Tịnh độ, nên sau khi Dâng hương, tụng chú Vãng sanh, kinh Hồng Danh
sám hối, kinh A Di Đà, chú Biến thực biến thủy, Phát nguyện, Tam tự quy y
v.v...
Trong thời cúng
Khai kinh, có bài tán Dương chi tịnh thủy, tân Khể thủ, tụng bài tựa Lăng
Nghiêm, trì chú Phổ Âm, chú Đại Bi.
Ngoài các thời
cúng trong chùa, còn có những lễ khác như Phật Đản (ngày sanh của đức Phật),
Thành đạo (ngày đức Phật tìm được chân lý dưới gốc cây Bồ đề), Vu Lan (mùa báo
hiếu), Chẩn tế cô hồn v.v...
Trong dân gian
còn có những lễ Táng, Thinh linh, Tiến linh, Đề phan, Đề vị.
2) Nhạc Phật Giáo
là một loại thanh nhạc. Khi nhạc chỉ để phụ cho lời tán, tụng.
Người Nhật có
danh từ Shômyo, người Trung Quốc đọc ra Sheng ming, người Việt Nam đọc thành
“Thanh minh”. Thanh là tiếng, minh là sáng, sự trong sáng của tiếng nói. Tiếng
Phạn là Saddhavidya.
Trong các nước
Đông Á có tụng và tán. Người Việt ngoài hai lối tụng, tán cơ bản, còn có niệm,
đọc, hô, bạch, tụng, xướng, thinh, tán, niệm Phật niệm hương, đọc sớ, hô kệ,
tụng kinh, xướng danh hiệu Phật, thinh linh, tán những bài ca ngợi công đức của
chư Phật, Bồ Tát ...
Trong những lễ
lớn, khí nhạc mới được dùng đến.
Mở đầu bằng chông
trống Bát nhã. Thường thường người dự lễ tưởng rằng chuông trống đánh từng hồi.
Chính chuông trống đánh theo số chữ trong bài kệ.
Bát nhã hội (3
lần: 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Thỉnh Phật thượng
đường (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Đại chúng đồng
văn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Bát nhã âm (3
tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Phổ nguyện pháp
giới (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Đấng hữu tình (3
tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Nhập Bát nhã (3
tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Ba la mật môn (4
tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Hồi chuông và
trống luôn đến dứt.
Sau trống chuông
bát nhã, dàn nhạc tấu bài Đăng đàn.
Tiếu nhạc tấu bài
Long ngâm, hoặc Ngũ đối thượng.
Chuông gia trì,
mõ gia trì và tang mở đầu cho bài tán Dương chi tịnh thủy (trong lễ khai kinh).
Trong lúc tán,
nét nhạc theo câu kinh, nhạc công phải thuộc bài tán. Có khi nhạc tấu bài Lưu
thủy thầy, tức là bản Lưu thủy đờn theo phong cách nhạc lễ.
NHỮNG ĐẶC TÍNH
CỦA HAI CÁCH TÁN, TỤNG TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1) “Tụng” là đọc
lớn, lớn hơn “đọc và “niệm”.
“Tán” là ca ngợi,
khen tặng. Tiếng “tán” có thể to hơn tiếng “tụng”.
2) Thanh giọng
được hệ thống hóa trong khuôn khổ của một quãng tám, trong bài “tụng” cũng như
bài “tán”.
3) Thang âm của
bài tụng, có thể 3,4 hoặc 5 (tam, tứ, hoặc ngũ cung). Thang âm trong các bài
tán đều là ngũ cung.
4) Điệu thức Thiền
và Ai đều được dùng trong tụng hoặc tán và tùy nội dung bài kinh, theo
địa phương, theo bối cảnh.
5) Nét nhạc trong
các bài “tụng” tùy theo thanh giọng của những chữ trong câu kinh, và cũng tùy
theo người tụng.
Nét nhạc trong
bài tán thường cố định theo từng bài. Người tán không thể thay đổi nét nhạc.
6) Mỗi chữ trong
câu kinh chỉ được thể hiện theo một âm trong bài tụng (Style sylabique).
Trong bài tán,
một chữ có thể tán với nhiều âm (Style melismatique).
7) Âm vực thâu
hẹp trong bài tụng, và mở rộng trong bài tán.
8) Trong bài tụng
nhịp đều trường canh, mỗi chữ trùng với một tiếng mõ ...
Trong bài tán,
nhịp phức tạp hơn. Chữ quan trọng trong câu kinh, kệ, thường được xướng theo
nhịp ngoại. Tang, mõ đáng theo chu kỳ (rymth cyclique). Trống đánh theo đối
điểm (contre point).
Có ba loại: tán
rơi, tán xắp, tán trạo. Nhịp theo chu kỳ khác nhau.
Ngoài ra những
cách “luyến, lẫy” được quy định rất cẩn thận.
Vì thời gian có
hạn, nên chưa đề cập đến vấn đề nhạc cụ dùng trong các lễ. Bài bản của các dàn
nhạc phụ họa cũng chưa kể hết.
KẾT LUẬN
Âm nhạc Phật Giáo
Việt Nam là một phần của âm nhạc truyền thống Việt Nam, mang tính chất đặc thù
của âm nhạc dân gian, âm nhạc thính phòng, và âm nhạc lễ Việt Nam.
Nét nhạc, điệu
thức, tiết tấu trong âm nhạc Phật Giáo Việt Nam rất phong phú và tế nhị.
Nhạc mang tính
chất thanh thản, nghiêm trang, đôi khi buồn man mác, mà không bi lụy.
Nhạc gợi một bầu
không khí trang nghiêm trầm lặng, giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh
có thể tập trung tư tưởng vào nghĩa của lời kinh.
Cách tụng, tán
trong Phật Giáo Việt Nam, ngày nay co xu hướng đi đến chỗ giản dị hóa. Trong
khi tại các nước Đông Á khác, như Nhật Bản, Triều Tiên, nhạc Phật Giáo được
truyền tụng trong các chùa, nghiên cứu để viết thành sách, đã được trình bày
rành mạch trong các cuộc hội thảo khoa học, trong nước Việt Nam chưa có một
công trình nghiên cứu rành mạch về nhạc Phật Giáo. Tôi rất mong sẽ có những nhà
nhạc học để tâm đến nhạc Phật Giáo Việt Nam để cho những các tán, tụng rất độc
đáo của Việt Nam được truyền lại cho thế hệ mai sau, mà không bị lớp bụi thời
gian che lấp và chôn vùi.
Trích
nội dung bài nói chuyện về Âm nhạc Phật Giáo tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam
tại Saigon.
QUẢNG BẢO sưu
tập
Nhân loại đang
bước những bước khởi đầu trên lộ trình vào thế kỷ 21. Dường như con người càng
lúc càng quan tâm nhiều hơn đến những biến chuyển của thời gian. Có lẽ không
phải vì con người đang ngày càng ý thức rõ hơn đến thể mệnh của thời tính, mà
vì con người đang quan ngại nhiều hơn đến các sự kiện xảy ra theo vận hành của
thời gian. Đó là những sự kiện có mối tương quan, tương hệ sâu sắc đến cuộc
sống của con người. Chiến tranh, hòa bình, khủng hoảng, trật tự, thịnh vượng,
nghèo khó, văn minh, lạc hâu, tự do, bất công, sống, chết, v.v... thuộc đủ mọi
bình diện từ cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia đến quốc tế.
Trong thời đại
văn minh tin học tối tân hôm nay, mỗi sự kiện xảy ra ở tận một lãnh địa xa xôi
nào đó của đại lục Phi châu cũng tức khắc làm xôn xao dư luận tại một nước nhỏ
ở lãnh địa Á châu. Chỉ cần một biến chuyển bất lợi của thị trường kinh tế tại
một xứ nào đó của châu Mỹ La tinh cũng đủ làm xáo trộn tình hình kinh tế của cả
thế giới. Việc đắc thất của tình hình chính trị tại một quốc gia Âu châu có ảnh
hưởng không ít đến sự ổn định và chính sách bang giao trong khu vực cũng như
trên toàn cầu. Thế giới thật đã ngày càng có mối tương duyên, tương tức gắn bó
nhau hơn nhờ những phương tiện kỹ thuật hiện đại thuộc đủ mọi địa hạt từ thông
tin, thương mại, ngoại giao, đến y khoa, giáo dục, giải trí v.v...
Từ ý nghĩa và bối
cảnh đó đã giúp con người nhận thức thâm tế hơn đến những vấn đề trọng đại của
nhân loại. Trước hết, con người dù với tư cách là cá nhân, cộng đồng hay quốc
gia dân tộc không còn và cũng không thể sinh hoạt biệt lập, cô lập với những cá
nhân, cộng đồng hay quốc gia dân tộc khác. Mối tương quan liên hệ đó không phải
chỉ là giải pháp nhất thời cho đối sách thuộc lãnh vực bang giao, nó là phương
thức trường kỳ để cộng sinh và cộng tiến cho cả cá nhân lẫn cộng đồng quốc gia
và quốc tế. Điều này được xác chứng rõ nét qua những nhu cầu thiết yếu để sinh
tồn của một cá nhân từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển, tiện nghi
trong mọi môi trường như học đường, y tế v.v... Rộng hơn nữa trên bình diện
quốc gia, những nhu cầu hỗ tương nhau giữa các nước về mặt ngoại giao, chính
trị, quân sự, kinh tế, xã hội đang ngày càng trọng yếu. Đây chính là lý do tại
sao thế giới đang càng lúc càng xích lại gần nhau hơn qua các hình thái liên
minh liên kết thuộc phạm vi khu vực hay trên toàn cầu.
Khi con người
nhận thấy rằng nhu cầu tương quan tương duyên là cần thiết để cộng sinh và cộng
tiến thì họ cũng ý thức ra được yếu tố quan trọng của sự mở cửa nhận thức, mở
cửa tầm nhìn, của sự bao dung, cảm thông và hợp tác giữa mọi thành phần xã hội,
mọi chủng loại, mọi sắc thái văn hóa đa dạng. Đóng cửa nhận thức chỉ là cách tự
cô lập mình giữa cuộc đời muôn màu muôn vẻ, chỉ là cách sống lầm lũi trong cái vỏ
ốc khép kín và nhỏ hẹp của giáo điều, tín điều, và thành kiến cố chấp. Mở cửa
nhận thức mới có thể tiếp nhận được những phong phú, những đa dạng, những dị
biệt của cuộc sống để sinh phong hóa đời sống của mình. Mở cửa nhận thức không,
chưa đủ, cần phải mở cửa tâm hồn. Đó là cuộc sống với tấm lòng độ lượng, bao
dung, cảm thông để có thể hợp tác, tương tác, trợ tác cùng nhau thăng tiến trên
lộ trình hoàn thiện đời sống cá nhân và xã hội.
Trong mối tương
quan tương duyên của cuộc sống cộng sinh cộng tiến, con người cũng đã tri nhận
ra được một trong những thành tố quan yếu khác để thành toàn tiêu đích, đó là
sự bình đẳng trong giá trị làm người. Sự tương quan tương duyên chỉ có thể thực
hiện được khi mọi thành tố đều có giá trị hiện hữu như nhau, nghĩa là không có
thành tố nào bị xem là đóng vai trò thứ yếu so với thành tố khác, điều ấy cũng
còn có nghĩa là mọi thành tố đều có chức năng hỗ tương như nhau, cái này có cho
nên cái kia có, và ngược lại, cái kia cho nên cái này có, cái này không cho nên
cái kia không, cái kia không cho nên cái này không. Một người trong gia đình,
trong cộng đồng, trong xã hội, trong thế giới, cũng như tất cả mọi người, hết
thảy đều có giá trị hiện hữu như nhau. Không ai có thể nhân danh bất cứ lý do
gì để chà đạp, để tước đi quyền sống và quyền làm người của kẻ khác. Mọi phương
tiện, mọi tổ chức, mọi cơ cấu được thiết đặt ra bởi con người phải để phục vụ
cho ích lợi của con người chứ không phải để khống chế, để bách hại hay để gây
khổ đau cho đồng loại. Trong giá trị hiện hữu, con người không thể không đặc
biệt quan tâm đến giá trị hiện hữu của những sinh thể, những vật thể khác trong
hành tinh của chúng ta: thú vật, biển, sông, rừng núi, cây cỏ, nguồn nước ngọt,
không khí, các tài nguyên thiên nhiên v.v... Nổ lực bảo vệ và trưởng dưỡng một
môi trường sinh thái tốt, một nguồn tài nguyên và thiên nhiên hoàn hảo, sự sống
quý giá của muôn thú là bổn phận thiêng liêng cao quý và cần thiết mà mọi người
đều nên làm. Con người không thể tồn tại được trên hành tinh này nếu không có
môi trường sinh thái tốt, không có nguồn tài nguyên và thiên nhiên hoàn hảo,
không có sự hiện hữu của muôn thú vật khác.
Để duy trì và
trách nhiệm đối với cuộc cộng sinh cộng tiến của nhân loại, con người cần giữ
gìn và phát huy toàn vẹn một xã hội dân chủ pháp trị và một cuộc sống đạo đức
tâm linh thanh khiết. Xã hội dân chủ là một xã hội thể hiện được đầy đủ tinh
thần bình đẳng và tương quan tương duyên giữa tất cả mọi người. Người dân trong
xã hội dân chủ có cơ hội thật sự để đóng góp tâm nguyện và khả năng của mình
vào việc xây dựng xã hội. Chính họ cũng là người có trách nhiệm và quyền hạn
tối hậu trực tiếp quyết định vận mệnh sinh tử của xã hội họ. Nền pháp trị giúp
ổn định đúng vị thế của con người trong mối tương quan tương duyên với cộng
đồng và do đó, kiến lập trật tự và an sinh cho toàn xã hội. Song song với nền
dân chủ pháp trị, xã hội không thể thiếu cuộc sống đạo đức tâm linh. Vì chính
cuộc sống đạo đức tâm linh thanh khiết mới là nền tảng cơ bản nhất cho mọi xã
hội dân chủ pháp trị. Con người có đạo đức và tâm linh thanh khiết là con người
thuần hòa, hiếu kính, bình tâm, tự chế, trí tuệ, thương yêu, khoan dung, tha
thứ, độ lưọng, vị tha v.v... những đức tính không chỉ mang lại an định, hạnh
phúc mà còn làm cho xã hội phát triển và phú cường.
GS Minh Chi
Có hai cuốn sách
mà tốt nghiệp Đại học Phật Giáo rồi, Tăng Ni sinh phải tiếp tục đọc, thường
xuyên đọc.
Một cuốn chính là
thân tâm chúng ta,. Một cuốn nữa là bản thân cuộc đời, đời của mình và đời mọi
người diễn biến xung qunah chúng ta, trước mắt chúng ta. Hai cuốn sách đồng
thời là hai ông Thầy. Hai cuốn sách đó luôn mở rộng trước chúng ta, nhưng chúng
ta thường lơ là không đọc. Nếu không chịu đọc hai cuốn sách đó, mà chỉ đọc sách
nội điển, ngoại điển thi dù có đọc nghìn vạn cuốn, hiệu quả không phải không
có, nhưng rất hạn chế.
Hai cuốn sách đó
chính là ngọn đèn mà Phật đã từng nói đến trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hãy lấy
tự mình làm ngọn đèn ... hãy dùng chánh pháp làm ngọn đèn ...”
Tự mình là thân
tâm mình, cuộc đời là mình. Học chính Pháp cũng là để đối chiếu với thân tâm
mình, đời mình. Hãy suy ngẫm kỹ!
Giáo sư Trần Tuấn
lộ
1. Giáo dục Phật
Giáo thời đức Phật còn sống
Nếu kể từ khi đức
Phật Thích Ca truyền bá Giáo pháp cho mấy người học trò đầu tiên của mình là 5
vị đạo sĩ tại vườn Nai gần Benares (Ba la nại) trong đó có Kiều Trần Như
(Kondanna) thì giáo dục Phật Giáo đã có một lịch sử 2583 năm, trong đó 45 năm
do chính đức Phật trực tiếp thực hiện.
Giai đoạn ngắn
ngủi 45 năm này trong lịch sử giáo dục Phật Giáo có những đặc điểm sau đây:
Một là, nhà giáo
dục, vị thầy, vị sư phụ đầu tiên của giáo dục Phật giáo là đức Phật, người đã
tự mình tìm ra được chân lý, đã chứng ngộ giáo pháp và đã tự thành Phật, đồng
thời tự thành vị Phật có khả năng truyền bá giáo pháp đầy đủ và có hiệu quả
nhất nên được gọi là Samma Sambuddha (Chánh biến tri). Khi chưa thành Phật,
nghĩa là chưa tìm ra chân lý và chứng ngộ giáo pháp, Ngài đã từ chối lời mời
của hai vị đạo sĩ Alàra Kàmàla và Uddaka Ràmaputta mời Ngài làm người dẫn dắt,
giáo dục các môn đệ của họ, vì Ngài nghĩ rằng khi Ngài chưa tìm được chân lý và
chưa chứng ngộ Giáo pháp thì làm công việc dẫn dắt như vậy có khác gì người mù
dẫn dắt người mù. Một nhà giáo dục như Ngài, một vị Phật, một đấng Chánh biến
tri, một bậc Toàn giá, một vĩ nhân có tình thương tinh khiết nhất, có trí huệ
sáng suốt nhất và có cuộc đời cao thượng nhất, là một nhà giáo dục vĩ đại nhất.
Hai là, sự giáo
dục của đức Phật là sự giáo dục bằng lời nói giản dị, dể hiểu mà có ý nghĩa vô
cùng sâu xa và đầy thuyết phục, bàng tấm gương đạo đức trong sáng của Ngài và
bàng sự chứng ngộ diệu kỳ của chính bản thân Ngài mà không cần đến sách vở kinh
điển nào cả.
Ba là, sự nghiệp
giáo dục của đức Phật chỉ trong 45 năm mà đạt được một kết quả kỷ lục: Ngài đã
giáo dục được biết bao nhiêu người đi theo Ngài để được giải thoát từ đạo sĩ
Kondanna là đệ tử đầu tiên đến đại đức Subhada là đệ tử cuối cùng, trong đó có
cả Vua cha, cả Công chúa Da Du Đà La, cả con trai La Hầu La v.v... Tất cả họ
đều đã đắc đạo quả cao để trở thành những bậc Tu đà hoàn, A la hán v.v... trong
đó có cả 500 vị đại đệ tử A la hán v.v... mà đứng đầu là đức Ananda và đức
Upali - những người đã cùng nhau ôn lại và sắp xếp những lời Phật dạy thành ta
Tam Tạng kinh mà chúng ta đang có hiện nay.
Bốn là, có được
những đệ tử xuất sác như vậy, đức Phật đã thành lập được Giáo hội Tăng Già với
60 vị A la hán làm thành viên đầu tiên với tư cách là đoàn thể tu sĩ xuất gia
và độc thân để hoằng dương giáo pháp trong thế gian, đồng thời đức Phật cũng
khẳng định rằng một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp, phù hợp với giáo
pháp và đắc đạo quả. Như thế là giáo dục Phật giáo trong thời đức Phật còn sống
đã nhờ có đức Phật, có giáo pháp của đức Phật và có Giáo hội đã trở nên hoàn
chỉnh với đầy đủ Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
2. Giáo dục Phật
giáo từ sau khi Phật đã nhập diệt
Từ sau khi đức
Phật đã nhập diệt đến nay, giáo dục Phật giáo thuộc về một giai đoạn mới: Đó là
sự giáo dục không phải của chính đức Phật và của các đệ tử của Ngài khi Ngài
còn sống, mà là sự giáo dục của Giáo hội Phật giáo đối với các Tăng Ni và đối
với các cư sĩ, theo giáo pháp của đức Phật, đã được ghi lại trong Tam Tạng
kinh.
Tất nhiên là
trong giai đoạn này, trừ 500 vị đại đệ tử A la hán đã làm nên Tam Tạng kinh ghi
những lời Phật dạy mà các vị đã trực tiếp được nghe đã trực tiếp nhận được giáo
dục của chính đức Phật, tôi nghĩ rằng không có ai ngày nay có được cái diễm
phúc là học trò trực tiếp của đức Phật và do đó, cũng không có ai có được cái
trình độ như các vị A la hán đó. Nếu so với sự giáo dục của đức Phật thì không
ai sau đức Phật kể cả 500 vị A la hán nói trên, có được trình độ và năng lực
giáo dục như đức Phật. Dĩ nhiên là như vậy.
Nhưng điều đáng
mừng, để được an ủi, là đức Phật đã để lại cho đời sau một giáo pháp nguyên vẹn
và vô cùng phong phú qua bộ Tam Tạng kinh. Đức Phật cũng để lại một Giáo hội do
Ngài thành lập mà ngày nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta là một hình
thức dân tộc mang tính lịch sử của di sản Giáo hội Tăng già thời đức Phật. Và
trên hết là biểu tượng đức Phật mà Phật tử tưởng niệm, nhớ ơn, cầu nguyện và
thờ cúng. Nói cách khác, cấu trúc hệ thống Phật-Pháp-Tăng của giáo dục Phật
giáo vẫn không hề thay đổi.
Chính vì thế,
giáo dục Phật giáo ngày nay cũng như trong lịch sử, vẫn có và vẫn giữ nguyên
những đặc trưng cơ bản của nó trong mục đích giáo dục, trong nội dung giáo dục
và trong phương pháp giáo dục.
3. Mục đích, nội
dung và phương pháp đặc trưng của giáo dục Phật giáo
Mục đích đặc
trưng của giáo dục Phật giáo là sự giải thoát khỏi mọi sự khổ đau, phiền não
muôn thuở vốn có của cuộc đời, của mọi kiếp sống của bất cứ ai. Đó là mục đích
cao nhất, khó nhất, phải trải qua nhiều kiếp sống mới đạt tới được, nhưng đối
với bất cứ ai cũng có thể đạt tới, không trong kiếp này thì trong một kiếp sau
nếu biết và cố gắng kiên trì đi theo giáo pháp của đức Phật. Đó là Niết Bàn, là
hạnh phúc tối cao và vĩnh viễn.
Sự giáo dục không
phải của Phật giáo, tôi muốn nói đến giáo dục của nhà nước và của các tổ chức
chính trị xã hội, cũng là sự giáo dục có mục đích giải thoát con người khỏi cái
khổ của ngu dốt, của đói nghèo, của lạc hậu, của nô lệ của bất công, của bóc
lột, của áp bức v.v... mà nhà nước và xã hội thường gọi là sự giải phóng: giải
phóng cá nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ, giải
phóng nhân loại ... Nhưng có giải phóng được hết các nỗi khổ mang tính lịch sử
nói trên, có người vẫn khổ với cái khổ muôn thuở, truyền kiếp của sự sống:
sinh. lão, bệnh, tử v.v...
Vì thế tôi hiểu
ra tại sao bên cạnh sự giáo dục theo hệ thống của nhà nước và của xã hội, con
người vẫn cần có sự giáo dục của Phật giáo, chừng nào còn có cái khát vọng giải
thoát hiểu theo nghĩa của Phật giáo.
Nội dung đặc
trưng của giáo dục Phật giáo, nội dung giáo dục thuần túy của Phật giáo là Phật
Pháp, bao gồm Giới-Định-Tuệ, một hệ thống các quan niệm và quan điểm triết học,
tâm lý học, đạo đức học và giáo dục của Phật giáo mà hạt nhân là Tứ diệu đế và
Bát chánh đạo.
Tuy nhiên, trong
khi đi theo con đường mà đức Phật đã chỉ để tìm tới sự giải thoát, người Phật
tử, Tăng Ni cũng như cư sĩ còn phải sống với xã hội và trong xã hội và còn phải
làm nghĩa vụ của người công dân đối với Tổ quốc. Vì thế, người Phật tử vẫn còn
phải cần học văn hóa phổ thông và học nghề trong một trường học nào đó thuộc
một bậc đại học, ngành học nào đó thuộc một bậc đại học, ngành học nào đó của
hệ thống giáo dục quốc dân. Đó cũng là lý do vì sao ngay trong một trường Phật
học cũng có học một số môn học không phải là môn Phật học.
Ngược lại, tôi
nghĩ rằng, nhà nước cũng nên tổ chức cho học sinh đến một lớp nào đó, ở Phổ
thông và ở Đại học, được học để biết một số kiến thức nhất định và chính xác về
Phật giáo và Công giáo hoặc một vài tôn giáo nữa hiện có ở Việt Nam. Đó là vì
con người Việt Nam chúng ta hiện nay và sau này phải là con người biết biết tôn
trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, mà muốn thế thì phải biết nội
dung cơ bản của từng loại tín ngưỡng, và đó là vì mỗi tôn giáo không chỉ là sự
tín ngưỡng mà còn là một nên văn hóa (triết học, tâm lý, đạo đức học, giáo dục
học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, văn hóa, hội học v.v... của tôn giáo đó).
Phương pháp đặc
trưng của giáo dục Phật giáo là phương pháp tự giáo dục, tự rèn luyện, tự thể
nghiệm bằng thực hành những điều Phật dạy (thực hành Bát Chánh Đạo) với sự giúp
đỡ của Tam bảo. Con đường đi tới Chân lý - sự giải thoát - Niết Bàn là ở trong
tâm của mỗi con người, Phật đã dạy như vậy, mà đã là ở trong tâm thì phương
pháp giáo dục của Giáo hội Phật giáo phải chuyển hóa thành phương pháp tự giáo
dục của bản thân người được giáo dục. Sự giáo dục nhận thức, giáo dục trí tuệ,
giáo dục tài năng đã phải là như vậy, thì sự giáo dục tình cảm, giáo dục ý chí,
giáo dục đạo đức lại càng phải như vậy.
Con đường đức
Phật đã đi để tìm đến được Chân lý, đến được Niết Bàn, đến được sự giải thoát
là con đường do đức Phật tự tìm ra và tự đi theo với trí tuệ, với tình cảm và
với ý chí của riêng mình, không có ai và không cần ai giúp đỡ cả.
Ngài đã nói: “Chỉ
có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội
lỗi, chỉ có ta gột rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có
thể làm người khác trở nên trong sạch ” ... “Các con phải tự mình nổ lực, các
đấng Như Lai chỉ là đạo sư ...” “Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem
con là nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác”.
Nổ lực và kiên
trì của cá nhân là chính nếu không nói là duy nhất. Ngày nay, dù đã có Tam bảo
(Phật-Pháp-Tăng), nhưng sự nổ lực và sự kiên trì thực hành của bản thân Phật tử
theo Bát Chánh đạo mà Phật đã chỉ ra là nhân tố quyết định.
Giáo sư Phan Lạc
Tuyên
Cao siêu vô cùng
và vẫn là một khám phá liên tục không ngừng nghỉ đối với con người mỗi sát na
biến chảy trong suốt cuộc đời phù du và hữu hạn thì Đại Bát nhã Ba la mật Tâm
kinh (Maha Prajna paramita Sutra) hiện lên như mặt trời tối thượng, rực rỡ làm
cho con người thấy rõ được cái “bản lai diện mục” và thấy rõ Phật tâm.
Phải chăng hiện
thân của Bouddha chính là Bát nhã, và ánh sáng tối thượng của Bát nhã, hình ảnh
nhục thể của Bouddha và của ta nữa sẽ không còn tồn tại vì như Bodhdharma đã
nói với đệ tử: Phật là một tiếng Ấn Độ chứ không phải là tên một người và có
nghĩa là giác ngộ, linh giác”, mà mọi người đều có thể đạt đến được”.
Cái tâm Phật
chính là cái tâm Bát nhã, cái tâm của con người đã không còn nữa. Đó là cái tâm
không có khái niệm (nondefinition mind) cái tâm mà không một khái niệm nào có
thể dung chứa được. Cái tâm Bát nhã đã phá vỡ cái tâm có khái niệm, do con
người đặt ra và nô lệ vào con người.
Con chim đại bàng
Bát nhã đã rời bỏ đỉnh núi hạn hẹp của cái tâm thế nhơn mà bay lên vũ trụ vô
cùng và vĩnh hằng, với ánh sáng kỳ diệu Bát nhã, đã nhìn rõ nỗi đau khổ vì
tham, sân, si của con người chồng chất hơn cả cát sông Hằng (Gange).
“Quán tự tại Bồ
Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ
nhất thiết khổ ách”.
(Đức Quán tự tại
tức là đức Quán Thế Âm trong khi thi hành Bát nhã Ba la mật đa tức là nền hạnh
đức trí tuệ sâu xa và rốt ráo, đưa Bồ Tát đến quả vị Phật, thời thấy năm uẩn
đều không, sự soi thấy như vậy độ thoát khỏi các sự khổ não tai ương).
Thiền sư Thần Tú
nhìn cái tâm còn giới hạn, trong việc thừa nhận cái tâm có khái niệm và luôn
được “lau chùi” cho trong sáng:
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sự nhạ trần ai.
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương
sáng
Luôn luôn siêng
lau chùi
Chớ để bụi trần
bám
Nếu ví Thần Tú
như con đại bàng đậu trên đỉnh núi cao đạo hạnh thì Huệ Năng như con đại bàng tiếp
tục bay vào vũ trụ mênh mông vô cùng tận của Bát nhã, xóa bỏ cái tồn tại hữu
hạn của Ý-Thức-Tâm:
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai
Bồ đề vốn không
cây
Gương sáng chẳng
phải đài
Xưa nay không một
vật
Chỗ nào bám bụi
trần.
Con đại bàng Huệ
Năng đã rời bỏ đỉnh núi cao của cái Tâm-Ý-Thức để bay vào cuộc hành trình vô
tận, vĩ đại bao la không cùng của Bát nhã. Ngọn núi Tâm-Ý-Thức của Thần Tú đã
bị xô ngã, không còn gì khác ngoài ánh sáng của giác ngộ mà Bouddha là hiện
thân. Giác ngộ phải chăng là sự chối bỏ khái niệm tồn tại của tham, sân, si
ngay trong khi nó chưa xuất hiện. Đây chính là bông sen vô tâm mọc lên từ vũng
bùn phiền não, được nuôi nấng bằng đất, nước, ánh sáng của tâm Phật mà đã thành
một khái niệm không phải là đất, nước, ánh sáng, tự nó chối bỏ cái đã tạo ra nó
để cái tâm Phật đã chuyển thành một bông sen mà Bouddha đưa ra cho những đệ tử
nghe người thuyết pháp và đã trao cho Ca Diếp. Bông sen đó chẳng còn là bông
sen và đã trở thành một thông điệp của Bát nhã. Ánh sáng Bát nhã rửa sạch con
người khỏi mặc cảm tội lỗi vì đã xóa bỏ mọi mặc cảm vế ý thức này trong lòng
người.
Bát nhã Ba la mật
đa Tâm kinh đã nói: “Vậy nên trong chân không, không có cái sắc, không có cái
thọ, cái tưởng, cái hành và cái thức ... cho đến không có cái già, cái chết
cũng không có pháp gì làm cho dứt cái già, cái chết. Không có Khổ, Tập, Diệt,
Đạo ... nhờ trong tâm không có điều gì ngăn trở nên Bồ Tát không hề thấy mình
lo sợ, bèn xa lìa mộng tưởng điên đảo, đắc Niết bàn trọn vẹn”.
Cái tâm của Bát
nhã đã khiến cho con người được hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ, như
một chân không cực lớn như Bodhidarma đã nói với đệ tử của mình “ ... Đừng lẫn
lộn Tâm với trái tim bằng thịt, chính pháp thân này mà ta phải ngó nơi mình. Ta
phải di động và hành động trong ánh sáng của tâm. Nó bao trùm tất cả chúng sinh
như sông Hằng giữ trong nước vô số nguyên tử của đất màu mỡ. Ta không thể diễn
tả nó được cũng không giải thích bằng những lời nói”. Thiền sư Tuệ Trung đã nói
lên tâm sự của mình: “Khi tâm sanh, ấy tức Phật sanh. Bằng Phật diệt ấy tức
Phật diệt”.
“Đi cũng thiền,
ngồi cũng thiền,
Giữa lò lửa rực
một cành sen”.
Ánh sáng Bát nhã
đã khiến con người không còn có sự đối kháng giữa tâm và vật, không hề có khái
niệm Thiện vì không có khái niệm Ác, gạt bỏ toàn thể cái gì không phải là giác
ngộ, là giải thoát. Phật tâm là hơi thở và ánh sáng, là chính con người và sự
hòa tuyệt đối đó là Pháp thân. Không ngôn từ nào có thể diễn đạt được sự giác
ngộ vô cùng đó. Bodhidharma cũng đã thốt lên tiếng nói đó: “Mộng không thể học
được, chết không học được. Lãnh hội Phật tánh nơi mình càng không thể học
được".
Bát nhã là ánh
sáng vi diệu đánh thức con người trong sự chìm đắm u mê của bao tham vọng, có
những tham vọng đã được thể hiện bằng tội ác, mà tội ác có cái được che dấu, có
cái bị phát hiện, nhưng còn những tội ác chưa được thực hiện thì nào người đời,
luật pháp đâu có biết. Ánh sáng Bát nhã một khi được tỏa sáng trong Tâm thì
tham vọng và tội ác không thể xuất hiện, dù trong tiềm thức (Subconsciousness).
Bát nhã đã khiến
con người trần thế đi dần vào sự thức tỉnh, tự mình thức tỉnh như một đóa sen
bừng nở trong trong một ao bùn và đưa hương. Sự thức tỉnh tự tìm xem khuôn mặt
của chính mình tự trở về cái “bổn lai diện mục”, tìm về cái vô cùng rực
sáng của Phật tâm, mà gọi tham, sân, si đã bị đẩy lùi và biến mất một cách vĩnh
viễn thì làm gì còn có khái niệm Ác, mà Ác không còn khái niệm thì lấy gì làm
đối tượng cho khái niệm Thiện, con người không còn phải đấu tranh với cái Ác,
và con người Phật tâm sẽ làm cho chính mình và xã hội là Phật tâm.
Bát nhã rực sáng
đốt cháy mọi điều vị kỷ riêng tư, hòn ngọc kim cương vô ngã bỗng tỏa sáng dũng
mãnh, như hư vô, hiền hậu như chân không, dịu dàng như vô lượng của thiên hà
một đêm vũ trụ tỏa sáng.
Bát nhã mang lại
vô ngã và vô ngã đã làm bừng sáng lên những sức mạnh của Vô úy và Vô chấp. Một
con thuyền vô hình đã đưa con người sang bên bờ của Đại giác. Dòng sông của
tham, sân, si, cuộc sống đã trở về phía sau với sự giác ngộ Phật tâm.
Nếu chúng ta đi
dần vào ánh sáng của Bát nhã có nghĩa là Phật tâm đang lớn lên như nụ sen đang
từ vũng bùn trần tục ngoi lên mặt nước. Chúng ta đã hốt nhiên độ được chính
mình, hốt nhiên Phật tâm đã trở về vĩnh hằng trong chúng ta, và Bouddha là bông
sen và cũng chính Bouddha trao tặng cho ta như đã từng trao cho Ca Diếp.
TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC
PHẬT GIÁO TRONG THỜI HIỆN TẠI
Giáo sư Nguyễn
Khắc Thuần
Không ai phủ nhận
rằng, ngay từ buổi đầu của thời kỳ Bắc thuộc, cho dẫu Phật giáo đã có một vị
trí không nhỏ trong đời sống tinh thần của xã hội ta, các triều đại phong kiến
Trung Quốc thống trị vẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi để Phật giáo có thể tiếp
tục truyền bá vào nước ta một cách mạnh mẽ, và cũng không ai phủ nhận rằng, quá
trình tạo mọi điều kiện thuận lợi này, cũng chính là quá trình Trung Quốc tìm
cách lợi dụng tất cả những gì có thể lợi dụng được ở nhà Phật, nhằm không ngừng
tăng cường và cũng cố sức mạnh của nền đô hộ. Tuy nhiên, tôn giáo nói chung và
Phật giáo nói riêng, bao giờ cũng có những quy luật vận hành mang tính đặc
trưng của mình, không dễ gì phụ thuộc hoàn toàn, càng không dễ gì bị sa lầy trong
vòng cương tỏa nghiệt ngã của chính quyền Bắc thuộc. Phật giáo đã tìm được con
đường thích hợp để đến với xã hội, và xã hội đương thời đã tiếp nhận Phật giáo
với một quy mô ngày càng rộng lớn hơn. Thư tịch cổ và đặc biệt là kho tàng
phong phú của truyền thuyết dân gian đã xác nhận điều này.
Muốn tồn tại và
phát triển, tôn giáo nào cũng đều phải nhập thế. Vấn đề còn lại chỉ là những
phương cách và kết quả khác nhau của quá trình nhập thế rất tích cực của nhà
Phật chính là việc nhận lãnh địa hạt giáo dục mà bấy giờ vẫn còn như là bỏ ngỏ.
Nói khác hơn, nhà Phật vừa truyền đạo vừa mở mang trí tuệ cho xã hội. Hai hoạt
động này luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Có một thời rất lâu dài
trong lịch sử nước ta, nhà chùa là nhà trường và nhà sư là nhà giáo. Ngàn xưa
dân gian vẫn thân mật gọi các nhà sư là Thầy chùa. Dầu muốn hiểu theo bất cứ
nghĩa nào thì hai tiếng Thầy chùa cũng đều hàm ý tốt đẹp cả, và có lẽ cũng
không phải là ngẫu nhiên, khi trong Hán tự, chữ sư vừa có nghĩa là thầy giáo,
lại vừa có nghĩa là nhà sư.
Đông Tây kim cổ
đều cho hay, dạy học là một nghệ thuật. Với loại hình nghệ thuật đặc biệt này,
vốn hiểu biết của người thầy là cực kỳ quan trọng, bởi vì suy cho cùng, bài
giảng hay nhất bao giờ cũng chính là những bài giảng chứa đựng lượng thông tin
phong phú và có hệ thống nhất của môn học, nhưng yếu tố quyết định thành công
trong nghề nghiệp, quyết định vị trí cao thấp của người thầy, lại không hề gói
trọn trong phạm vi chật hẹp của vốn hiểu biết. Lịch sử nền giáo dục nói chung
và giáo dục nhà Phật ở Việt Nam đã cho thấy rõ điều này.
Thoạt đầu, xã hội
cảm nhận Phật giáo thông qua hình ảnh cụ thể của các nhà sư, cảm nhận sự cần
thiết phải học hỏi thông qua những biểu hiện dễ thấy về tư chất của người tu
hành. Trong số rất nhiều biểu hiện tốt đẹp của các bậc xuất gia, có bốn điều mà
bất cứ ai cũng đều có thể dễ dàng thấy được. Một là đạm bạc trong ăn uống, hai
là giản dị trong sinh hoạt, ba là đứng đắn trong giao tiếp và bốn là tận tụy
với thế tục. Gồm đủ bốn điều rất dễ thấy ấy, người tu hành được dân tin, và
niềm tin bao giờ cũng là tài sản vô giá của mọi thời. Nhà Phật tổ, hàng loạt
những khái niệm và cách giải thích khái niệm rất riêng của mình, vì sở thích,
lại cũng vì lý do nghề nghiệp, tôi đọc chí ít hàng chục cuốn sách của nhà Phật,
trong đó, có cuốn đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, nhưng thú thực, phần
hiểu được chẳng đáng là bao. Chắc rằng tuyệt đại đa số những người sống trong
thời Bắc thuộc cũng khó có thể hiểu được, Bấy giờ, xã hội thành kính cho nhà
chùa tất cả đều tôn nghiêm, trước hết, có lẽ chưa phải là vì sự hiểu biết mà là
vì sự tin cậy. Nhà Phật đến với địa hạt giáo dục bắt đầu từ sự tin cậy đặc biệt
này.
Thời Bắc thuộc,
có cuôc song hành giữa hai loại hình giáo dục trong phần lớn các nhà chùa. Một
là truyền bá kiến thức thông thường cho thế tục. Loại hình này bao hàm những
hoạt động đại thể như: dạy chữ nghĩa, dạy đạo lý ở đời, dạy phép đối nhân xử
thế và dạy cả cách làm ăn sinh sống nữa. Tôi rất thích lời truyền tụng của nhân
gian về câu nói của nhà sư Già La Đồ Lê rằng: “Hãy chỉ vẽ cho chúng sinh những
gì chúng sinh đang cần mà chưa vội rao giảng cho chúng sinh những gì ta biết”.
Loại hình thứ
hai, mang đậm đà đặc trưng của nhà chùa là giảng đạo. Loại hình này sẵn cần cả
bá tính, nhưng xem ra, chỉ những ai giàu lòng mộ đạo và có duyên số, những
người theo được lâu bền đều trở thành các bậc xuất gia.
Như vậy, nói theo
cách nói ngày nay thì trên đây là hai loại hình giáo dục, thích ứng với hai
loại đối tượng khác nhau. Sự thích ứng này đã tạo hiệu quả tốt đẹp. Thời Bắc
thuộc, hễ nói đến giáo dục thì cũng có nghĩa là trước hết và chủ yếu là nói tới
giáo dục nhà Phật. Bấy giờ nhà sư là lực lượng trí thức quan trọng của xã hội.
Có cái gì đó rất đáng kính, không có trong giáo lý nhà Phật, nhưng lại gắn bó
mật thiết với nhà chùa và nhà sư đương thời.
Trong chỗ tự
nhiên của quá trình tìm tòi và so sánh, hậu thế thường rất dễ đắc tội với cổ
nhân, nhưng chối bỏ việc tìm tòi và so sánh, thật khó mà làm nổi bật được những
điều cần làm nổi bật. Muốn hiểu rõ hơn về giáo dục nhà Phật trong thời Bắc
thuộc, hản nhiên là phải so sánh với giáo dục của nhà Nho đương thời. Cũng là
giáo dục, nhưng hai hệ thống này có rất nhiều điểm hoàn toàn khác biệt nhau.
Bấy giờ đến với
nhà Nho cũng có nghĩa là chấp nhận guồng máy đô hộ của quân xâm lăng, chấp nhận
tư tưởng ngoại lai được quân xâm lăng áp đặt trên toàn cõi. Cảm giác nẩy nở từ
thực tế chua xót này không có khi đến với nhà Phật.
Thời Bắc thuộc,
cho dầu là ở bất cứ nơi đâu thì nhà quan vẫn là nhà quan, xa trông đã thấy có
cái gì có vẻ đầy vẻ quyền uy và cách biệt với thế gian, không phải là nơi lui
tới của những người thân phận thấp hèn. Ngược lại, các bậc xuất gia tu hành thì
ở chùa, nhưng nhà chùa không phải là của riêng nhà sư. Bất cứ ai cũng có thể
tới chùa, bởi vì cửa chùa lúc nào cũng mở rộng với chúng sanh khắp thiên hạ.
Trong Tiếng Việt, chùa không chỉ có nghĩa là chùa chiền mà còn có nghĩa là sự
thoải mái, là miễn phí và nhiều nghĩa tương tự nữa.
Thảng hoặc đó
đây, cũng có ý kiến cho rằng, hệ thống giáo dục của nhà Phật bộc lộ khá rõ sự
thiếu vắng những bài bản chặt chẽ, những quy chế rạch ròi, những bằng cấp cao
thấp cụ thể ... Hẳn nhiên, ý kiến này không phải là hoàn toàn sai, song cũng
khó nói là đúng. Về mặt phương pháp luận, lấy hệ thống giáo dục này làm chuẩn
mực để xét đoán hệ thống giáo dục khác là điều không nên, cũng là điều không
thể, vả chăng, nếu lấy hiệu quả thiết thực làm cơ sở để nhìn nhận, thì rõ ràng
giáo dục nhà Phật đã làm được tất cả những gì có thể làm trong điều kiện đối
với khó khăn của thời Bắc thuộc. Từ hiệu quả rất thiết thực này, nhà Phật đã
khẳng định được vị trí quan trọng nhất so với tất cả các hệ tư tưởng và tín
ngưỡng vốn có ở ta đương thời. Không thể nói là ngẫu nhiên, khi mà tất cả các
triều đại nối nhau cai trị trong buổi đầu của kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống
nhất, đều đề cao nhà Phật, đều đặt hẳn một hệ thống quan lại dành riêng cho các
bậc đại sư, gọi là tăng quan, đều coi Phật giáo như là quốc giáo của nước nhà.
Cùng với quá
trình truyền bá và phát triển của Phật giáo ở nước ta là quá trình hội nhập tự
nhiên và ngày càng sâu sắc của đạo đức nhà Phật với đạo lý cổ truyền của nhân
dân. Đây vừa là, lại cũng vừa là nguyên nhân, khiến cho giáo dục nhà Phật có
thể thấm sâu vào xã hội. Từ nhà chùa đi vào nhà dân, cả dung mạo lẫn hàng trạng
của Phật đều có những biến thái, nhưng đây là sự biến thái rất đáng yêu. Phàm
là người Việt, có lẽ không một thế hệ nào không biết tới Bụt.
Về nguồn gốc Bụt
cũng chính là Phật, nhưng trong tâm tưởng của dân, Bụt có nhiều nết không giống
Phật. Nói khác hơn, chúng sanh tiếp nhận Phật giáo theo cách của chúng sanh.
Chẳng hiểu vì sao, tôi cứ tin rằng, nếu quả có Phật hiện hữu lúc này, thế nào
Phật cũng vui vẻ nhận lời hóa thân làm bụt, bởi vì suy cho cùng, việc này chẳng
hề phương hại gì đến tâm nguyện của đấng Vô thượng cao cả.
Sau thời Bắc
thuộc, Phật giáo còn tiếp tục quản lãnh địa hạt giáo dục thêm một thời gian khá
dài nữa. Ngay cả khi giáo dục Nho học đã trở nên cực thịnh, Phật giáo vẫn không
hề coi nhẹ trách nhiệm hợp tác đầy thiện chí của mình.
Đã có không ít ý
kiến đề cao vai trò giáo dục Nho học đối với toàn bộ tiến trình phát triển
chung của lịch sử giáo dục ở Việt Nam. Đây là điều không thể phủ nhận được,
nhưng có lẽ cũng cần phải nhấn mạnh rằng, một trong những cơ sở thành công của
giáo dục Nho học chính là nhờ ở sự nghiêm cẩn kế thừa và phát huy những kinh
nghiệm của giáo dục Phật giáo thời Bắc thuộc.
Giáo sư Hoàng
Thiệu Khang
Cảm hứng lý
thuyết của tác giả bài tham luận nhỏ này là sự tiếp cận những tính chất thẩm mỹ
của Phật giáo để phát biểu những nội dung giáo dục thẩm mỹ. Do vậy, bản
tham luận vừa mang tính lý thuyết và vừa mang tính phương pháp, tính thực tế
Phật học là một hệ thống lý thuyết uyên áo, nhưng hệ thống ấy không thoát ly
cõi đời, nó soi mình vào đời để mong giải thoát cho con người trần thế.
1. Giáo dục, theo
tinh thần Phật học, là một thiết kế tự nguyện, tự giác. Tự nó, tính tự
giác đã bộc lộ một trình độ của người học, dầu chỉ là trình độ khởi đầu. Giáo
dục theo tinh thần Phật học là một quá trình do người thầy thiết kế đẻ người
học tự tìm ra bản thể của mình, trở về chính mình. Đó là một hành trình vì sống
trong những điều kiện hiện thực, con người rất dễ bị rơi vào tha hóa
(aliénation). Tìm ra chính mình để trở về với chính mình là một quá trình
nhận ra cái bi để đi đến cái đẹp.
Lại nữa, hành
trình về Niết bàn là một quá trình “quên” - được hiểu theo nghĩa triết học.
Trên con đường muôn dặm có những con sông cắt ngang. Để có thể qua sông, con
người phải nhờ người lái đò ngang (tirthankara). Nhưng muốn đi tiếp thì khi đã
sang được bờ, con người phải “quên” người lái đò, “quên” cả con đò. “Quên” ở
đây không mang nghĩa đạo đức. Nó là một khái niệm chỉ định tính chất đồng hóa
những giáo lý, lời giảng của thầy. “Quên” là sự chuyển hóa thành máu những gì
đã được ăn.
2. Công việc đầu
tiên của việc giáo dục thẩm mỹ theo tinh thần Phật học là việc chỉ ra được
phạm trù cái Bi. Bi chứ không phải là buồn. Có rất nhiều cái buồn mà không
hề mang thẩm mỹ cái Bi. Buồn là một trạng thái tâm lý, tình cảm. Bi là một khái
niệm triết lý, nhưng với Phật học, đây là triết lý hiện thực trong cõi đời. Nó
thể nghiệm đời con người.
Con người tự
giới hạn mình trong sinh, lão, bệnh, tử là Bi chứ không phải tự nó,
“sinh, lão, bệnh, tử” là Bi. Bi diễn ra nơi quy luật tất yếu, không diễn tiến
theo cái tất yếu. Quy luật tất yếu là sự sống. Phản quy luật là sự tàn lụi, sự
chết. Sự sống rơi vào tàn lụi, sự chết, nơi đó là cái Bi. Vậy thì vấn đề là một
cách nhìn, một thái độ. Quy luật là “xuân đi muôn hoa rụng, xuân đến muôn
hoa khai”. Đối với quy luật tiêu trưởng ấy như thế nào là cả một linh hồn
Phật học.
Bị buộc mình vào
nỗi sợ hãi bởi “sinh, lão, bệnh, tử” vì con người cảm nhận cuộc sống là thường,
cảm nhận mình là ngã. Thoát khỏi cảm nhận ấy, con người tiến đến sự giải thoát.
Sống trong cảm nhận ấy, con người bị tha hóa trong ham muốn, trong si mê, đố
kỵ, giận hờn ...
Đó là vòng luẩn
quẩn. Đó là cái nghĩa đích thực của “luân hồi" (samsara). Luân hồi không
phải là một khái niệm siêu hình mang tính chất mê tín. Đó là một khái niệm siêu
hình học (métaphisique). Nó chỉ định một bế tắc, một giới hạn của ngộ
nhận. Cho con người nhận ra mình là một thực thể còn bị trói buộc trong cái Bi
của luân hồi là việc đầu tiên của việc giáo dục thẩm mỹ theo tinh thần Phật
học.
3. Để thoát khỏi
cái vòng bi kịch luẩn quản ấy, con người phải tựa vào con đường mà đi? Đó là
vấn đề tiếp theo của Phật học.
Không thể nào
theo con đường của Bà la môn - con đường nhuốm màu không thể có thực. Theo Bà
la môn, để có thể có Mok’sa (giải thoát), con người phải đứng ở nơi xuất phát
nơi kinh nghiệm thuần túy (pure espérience). Con người phải tự vứt bỏ ý thức,
con người bấy giờ chỉ là một thực thể giác quan thuần túy. Từ đó, con người đi
vào một trạng thái giấc mơ (état de rêve). Rồi con người đi vào một giấc thụy
miên ... Con người nhập vào chân lý trong thụy miên. Đó là một con đường mà con
người trở về với cái vô thức. Nhưng con người là một thực thể có ý thức. Con
người phân biệt mình với động vật ở cái chất ý thức. Không thể có một giác quan
nào của con người lại không là giác quan mang tính ý thức. C. Mác đã chỉ định
đúng rằng: “Mắt chỉ có trở thành mắt con người khi đối tượng của mắt đã trở
thành đối tượng xã hội (objét social) của con người, một đối tượng từ con người
và trở về với con người ...”
Phật học là một
hệ thống đòi hỏi con người giác ngộ bằng trí tuệ, có nghĩa là bằng yếu tính
tỉnh thức. Đó là linh hồn của chữ “Giác”. Giác là “Tuệ giác”, là trí huệ. Như
vậy, để tiến đến một thực thể lý tưởng, một thực thể đẹp, theo tinh thần Phật
học không phải là sự từ bỏ ý thức mà ngược lại, phải đem ý thức đến tận cùng,
đến độ viên mãn. Chỉ có thể thoát khỏi cái Bi nơi vòng luân hồi luẩn quẩn khi
con người có đôi mắt đại giác huệ nhãn.
4. Đôi mắt đại
giác thể hiện như thế nào?
Đôi mắt là đôi
mắt biết nhìn vào “vô thường, vô ngã”. Đây là cả một phép biện chứng vô
cùng tinh khiết và uyên áo. Nó thực thi một sự thống nhất sâu xa giữa cuộc đời
thật với cõi Đạo lý tưởng. Nó nâng cái đời có thật của mỗi con người lên cõi
Đạo cao đẹp. Con người không siêu thoát đi đâu cả, con người vẫn sống trong cõi
hiện thực của đời mình, nhưng con người cũng đồng thời đang được sống ỡ cõi
Niết bàn. Con người thực thi một tinh thần siêu thoát nơi cuộc sống của mình.
“Vô thường” là
một cách thể nhận ra chân quy luật cuộc sống. Nó không nhìn cuộc sống là ảo
ảnh. Nó thấy cuộc sống là vận động, biến động. Có thể dẫn ra hàng trăm
câu kệ của các vị Thiền sư đời Lý, Trần để minh họa cho ý nghĩa trên; những câu
kệ của Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác, Giác Hải ... Như vậy, “vô thường” là một
cặp mắt nhìn vào hiện thực để phát hiện ra những quy luật vào hiện thực đang rì
rào chảy dưới nơi địa tầng sâu thẳm của cuộc đời. Quy luật nằm ở nơi đáy sâu
tiềm tàng, tiềm ẩn. Cho nên việc thấy được luật cũng là một sức mạnh của nhận
thức. Đó là huệ nhãn.
“Vô ngã” là một kết
quả, một kết luận của ý niệm “vô thường. Có nhận biết được cuộc sống
là vô thường thì mới có thể có một cách thể vô ngã. Tiến đến vô ngã, con
người sẽ thoát khỏi phạm trù cái bi kịch, một phạm trù vốn trói buộc con người
từ muôn thuở muôn nơi ... Con người sẽ thực thi được một thăng hoa từ mặt đất
cuộc sống. Niết bàn là vô ngã. Nơi ấy, con người vẫn ăn cơm với đời, vẫn ở với
người khác, nhưng con người không ở bằng cái thân của mình, một cái thân cạn
cợt. Tinh thần siêu thoát bộc lộ tập trung ở nơi đây. Lại một lần nữa, xin lưu
ý, tinh thần siêu thoát không phải là một thái độ thoát ly cuộc sống, mà ngược
lại, là một thái độ nhập thế tích cực, một thái độ nhập cuộc (engagé).
Có nhập thế, nhập
cuộc mới đến được cái Đẹp, vì cái Đẹp là cuộc sống. Hiển nhiên, đó là
cuộc sống lý tưởng. Hệ thống mỹ học Phật giáo chính là nơi đặt ra tư tưởng của
cái Đẹp lý tưởng tồn tại nơi trần thế, trần ai. Tư tưởng này về sau cũng đã
được thể hiện trong hệ thống Mác xít.
5. Cái đẹp, theo
tinh thần Phật học là an nhiên, tự tại, lạc quan. Đức Phật tự hái đóa
hoa đẹp từ cõi đời này, chứ không từ vườn địa đàng Thượng đế mơ hồ. An lạc là
một nội dung, một cách thế trong đời, ở với đời. Chữ “Vô” không đồng nghĩa với
“hư vô” (Méhilisme). “Vô” là sự thống nhất giữa hữu và vô.
An lạc là một sức
mạnh tinh thần của bản lĩnh tự tại. Bấy giờ, nghịch cảnh nằm ở ngoài con
người, không chi phối nổi con người. Trong nghèo hèn cũng như trong giàu sang,
trong yên bình cũng như trong uy vũ huy hiếp ... vẫn một bản lĩnh tự tại ấy; đó
là an lạc. Đó là cái đẹp theo tinh thần Phật học.
6. Trong tinh
thần Phật học, đẹp là một vị tha, là hạnh phúc của vị tha. Vị tha không
phải là một ban phát, bố thí. Nó là sự vong thân, một xả thân mà không hề đòi
hỏi sự đền bù. Đó là cái đẹp đến độ viên mãn. Chủ thể thẩm mỹ cảm nhận chính
mình nơi thái độ hy sinh này. Hiện thực cuộc sống của cá nhân được nâng lên tầm
lý tưởng, nhưng đó là lý tưởng từ hiện thực, của hiện thực. Lại một lần nữa,
chúng ta hiểu tư tưởng nhập thế của Phật học. Liên tưởng tới một ca từ của nhạc
sĩ Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết
không? Để gió cuốn đi ...” Làm ra thành tích mà không ở lại thụ hưởng. Đó
là cái nghĩa đích thực của cái đẹp vong thân.
Đại đức Thích
Phước Đạt
Không phải ngẫu
nhiên dân tộc chúng ta tôn vinh ngày 20 tháng 11 hàng năm là ngày Hiến Chương
Nhà Giáo Việt Nam. Thực tế từ trong tâm khảm của mỗi người ai cũng nghĩ rằng
được sinh ra và lớn lên từ vòng tay yêu thương của cha mẹ, được giáo dưỡng
trưởng thành từ sự chỉ dạy của người Thầy. Cho nên, vai trò, vị trí người Thầy
được xã hội tôn vinh lên hơn bao giờ hết từ xưa cho đến nay bằng những danh
hiệu cao quý: “Thầy giáo là kỹ sư của tâm hồn”, “Người Thầy dạy dỗ một đời
không biết mỏi mệt (giáo nhơn bất quyện)”. Từ nếp sống tôn sư trọng đạo đã đi
vào đời sống dân tộc Việt Nam đúng như lời nhận định: “Tôn sư trọng đạo” vốn là
truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta. Một dân tộc có bốn nghìn
năm văn hiến, nổi tiếng có học, biết trọng chữ nghĩa, đã hun đúc tự nghìn đời.
Trong ý niệm đó,
tất cả những người con Phật đang hiện hữu trên cõi đời đều tôn vinh đức
Phật Thích Ca là người Thầy căn bản nhất, cao quý nhất - đức “Bổn Sư” khai mở
tâm thức huệ mạng trong cuộc hành trình về miền đất giải thoát đầy an lạc. Hoặc
ở góc độ này, hoặc ở lĩnh vực khác, Thế Tôn cũng được tôn vinh lên là vị Giáo
Chủ, hoặc là nhà tư tưởng, một triết gia, một nhà giáo dục vĩ đại, nhưng trên
hết vẫn là người Thầy khả kính gần gũi chỉ dạy cho mọi người sống theo nếp sống
hướng thượng, vượt ra ngoài sự cám dỗ, vây hãm mà đời sống thế tục thường hay
trói buộc khổ đau hệ lụy đang diễn biến từng ngày ở mọi lúc mọi nơi.
Chính đức Phật là
vị Thầy không biết mỏi mệt trong sự nghiệp giáo dục trồng người vì lợi ích trăm
năm và hơn thế nữa. Trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sanh, ngài đã đi khắp nơi
đến muôn vàn miền đất để khai thị giáo hóa tất cả chúng sanh không phân biệt
tâm tính dị biệt, sắc tộc, địa vị, quyền uy. Với trách nhiệm là người Thầy, Thế
Tôn thường luôn thẩm sát về đối tượng giảng dạy, nội dung giáo huấn,
phương pháp truyền trao như thế để phù hợp với căn cơ nguyện vọng của từng đối
tượng trong từng trường hợp không gian, thời gian thích hợp để đạt hiệu quả cao
nhất mà người học trò có thể lĩnh hội tất cả các yếu chỉ cần truyền. Mục tiêu
giáo dục mà vị Thầy của chúng ta - Thế Tôn hướng đến là đào tạo ra con người xã
hội đáp ứng được nhu cầu của đất nước, hướng đến bằng sự an lành thịnh vượng,
bên cạnh đó là con người đúng với sự thật chính nó đáp ứng sự bình an nội tại
giữa tâm sinh lý, giữa ý chí và trí tuệ, tình cảm trong mỗi cá thể con người.
Xem ra, đức Phật
là vị Thầy để lại dấu ấn muôn đời với không biết bao nhiêu thế hệ học trò,
không biên giới lãnh thổ, tâm thức con người. Thật là không có giá trị hữu hiệu
giáo dục nào cả khi người Thầy không nắm rõ về đối tượng giáo dục mà mình đang
giảng dạy là ai để đề ra nội dung tương ứng, thích hợp với kỹ năng truyền đạt.
Kinh nghiệm thực tế cho thấy, mỗi thành viên được học tập, được giảng dạy
thường có các điều kiện sinh hoạt, sống và làm việc khác nhau về mặt tâm sinh
lý, tình cảm nhận thức khác nhau. Cho nên người Thầy giáo thành công nhất là
người biết tìm ra đối sách thích hợp để trao truyền mà người học trò có thể
tiếp nhận yếu chỉ của người Thầy truyền đạt với những điều kiện và phương thức
giáo dục tối ưu riêng biệt. Thế Tôn là bực Thầy kỳ tài trong lĩnh vực này. Ngay
từ buổi Thành đạo, Ngài đã thẩm sát quán chiếu thấy rõ năm anh em Kiều Trần Như
là đối tựong thích hợp nhất để lĩnh hội bài pháp đầu tiên “Sự Thật về Tứ Đế” có
giá trị làm cho bánh xe Pháp vận hành trên cõi đời này. Nguyên tắc giáo dục
theo căn cơ, theo điều kiện hoàn cảnh của từng đối tượng này đã làm cho đức Bổn
Sư của chúng ta trở thành vị Thầy vừa tôn kính vừa gần gũi biết chừng nào ngay
trong đời sống bình nhật. Cũng như hình ảnh hồ sen được miêu tả trong kho tàng
văn học Kinh tạng Pàli, có những cánh sen chưa nhô mầm ra khỏi mặt nước để tiếp
cận ánh sáng mặt trời, có những cánh sen đã vươn mình ra trước gió. Có những
cánh sen thẳng đứng để tỏa hương thơm ngát trời. Hẳn nhiên con người căn trí
bất đồng, có người độn căn và hạ liệt, có người độn căn thông minh vừa phải, có
người xuất chúng lại cao sang v.v... tất cả đều được vị Thày chúng ta hướng dẫn
khai thị với những bài pháp thích hợp đúng thời đúng chỗ. Khi cần giảng dạy cho
bậc lãnh đạo vua chúa thời âm vang lời nói của Thế Tôn mang tính chỉ đạo, quốc
sách, chiến lược để đất nước thạnh trị. Kinh Tăng Chi, chương Bảy Pháp đã đề
cập đến bảy điều kiện phát triển quốc gia, chương Mười Pháp đề cập đến mười
điều gọi là “Thập Vương Tử Pháp” thiết lập bộ máy lãnh đạo đầy đủ phẩm chất trị
vì đất nước. Cụ thể hóa như sau:
1. Độ lượng, bố
thí, bác ái.
2. Không tham ái,
không tham tiền của và tài sản.
3. Không sát
sanh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không say sưa.
4. Hy sinh tất cả
vì lợi ích của dân chúng, sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân.
5. Hiền từ và hòa
ái.
6. Tri túc (biết
đủ) trong đời sống.
7. Không được sân
hận, không được tư thù.
8. Nhẫn nhục
trước mọi khó khăn, trước mọi chỉ trích mà không mất bình tĩnh.
9. Không hại
người, đề cao hòa bình, ngăn chận chiến tranh, bạo động, phá hoại sự sống.
10. Không chống
lại ý muốn của dân mà thuận ý dân.
Khi tiếp cận quần
chúng lao động, ngôn ngữ diễn giảng của Thế Tôn cũng rất giản dị, dể hiểu, đáp
ứng nhu cầu đời sống tâm thức chính họ trông chờ. Như người Thầy mở hướng chỉ
dẫn cho học trò với tấm lòng bao dung tận tụy, lo toan đời sống hạnh phúc từng
cá thể được thiết lập khi thực thi:
1. Giỏi tay nghề,
siêng năng, biết điều hành công việc.
2. Biết quân bình
thu chi và tạo số thu lớn.
3. Biết làm ra
của cải hợp pháp theo khả năng lao động của mình.
4. Biết đầu tư
cho công ăn việc làm.
5. Biết làm bạn
với người hiền.
6. Biết quân bình
thân tâm, giữ gìn sức khỏe.
7. Biết cho cho
đời sau, có tín, thí, giới, tuệ.
Trong đời sống
hướng dẫn Tăng Ni tu tập, Ngài đã khéo léo giảng dạy, độ trì cho Tỳ kheo
Cullapanthaka ám độn, bốn tháng chưa học thuộc bài kệ bốn câu. Với một tâm lý
tuyệt vọng, muốn hoàn tục để tu phước. Sau khi được Thế Tôn trao cho một tấm
vải sạch và bảo vừa lau bụi vừa nói “đồ lau bụi”, Tỳ kheo đã tinh tấn thực hành
theo lời dạy không biết mệt mỏi. Khi miếng vải tinh sạch bị đen sì bởi bụi trần
dính vào là lúc Tỳ kheo Cullapanthaka bỗng nhiên hốt ngộ tính vô thường của các
hành, tâm an trú trên đoạn diệt, đi vào Thiền quán, tẩy rửa tất cả các phiền
não còn chất chứa trong tâm thức. Khi nguồn tuệ có sẵn bên trong rực sáng lên,
Thế Tôn đã nêu ý nghĩa đó bằng bài kệ, Tỳ kheo Cullapanthaka liền đắc quả A la
hán, chứng Vô ngại giải, thông suốt ba tạng Kinh điển.
Rõ ràng thẩm sát
đối tượng giáo dục theo căn cơ trình độ học trò là điều cần thiết cho tiếp
nhận. Nó có tác dụng khai mở trí tuệ và phát triển nhân cách đi đến sự tột cùng
của sự hoàn thiện. Suy cho cùng mục tiêu giáo dục duy nhất từ xưa đến nay là
thăng chứng quá trình chuyển hóa nhân tính. Hau nói cách khác, theo Phật giáo
quá trình đó chính là quá trình chuyển hóa nghiệp quả, và người Thầy chính là
người có tác động, gợi mở hướng đi chuyển hóa nghiệp cũ đã làm của tự thân mỗi
người sang nghiệp mới với một ý thức tác ý rõ ràng, cụ thể theo mục tiêu nhất
định. Thế Tôn là người Thày từng khiến các học trò của mình thường xuyên tẩy
rửa, đoạn trừ các hành động có kết quả xấu về thân, khẩu, ý ngay trong hiện
tại. Nội dung giảng dạy phải thiết thực hiện tại mang tính thực tiễn hữu hiệu.
Con người phải biết an trú nếp sống hiện tại. Chỉ có sống với hiện tại, con
người mới chuyển hóa và thăng tiến trí tuệ. Than thở tiếc nuối quá khứ chỉ là
con đường đi đến sự tuyệt vọng dẫn vào ngõ cụt cuộc đời đầy khổ đau. Mơ màng
đến tương lai chỉ tạo ra sự ảo giác hạnh phúc cuộc đời, trong khi hiện tại
chẳng khởi động thiện tâm thì sẽ rơi vào đời sống phi thực. Tuổi trẻ sẽ đi qua,
già nua ắt phải đến trong khi dòng sống vẫn tiếp hiện vô cùng sống động và thật
có ý nghĩa. Sống thực với hiện tại mở ra chân trời mới đầy tự do khi khát vọng
trông chờ hạnh phúc hóa hiện. Bài học của vị Thầy chúng ta giảng dạy hôm nào
vẫn còn âm vang khắp nơi:
“Không than việc đã qua
Không mong việc sắp tới
Sống ngay với hiện tại
Do vậy sắc thù diệu
Do mong việc sắp tới
Do than việc đã qua
Nên kẻ ngu héo mòn
Như lau xanh lìa cành
Hay:
“Quá khứ không truy tìm
Tương lai không ước vọng
Qúa khứ đã đoạn tận
Tương lai lại chưa đến
Chỉ có pháp hiện tại
Tuệ quán chính nơi đây”.
Chính Thế Tôn, vị
Thầy cao cả của chúng ta đã khéo léo từ chối các vấn đề siêu hình do người học
trò Màlunkyaputta đạt ra như là Thế giới là thường, vô thường, tồn tại hay
không tồn tại sau khi Như Lai nhập diệt. Thế Tôn đã ôn tồn diễn giải các vấn đề
siêu hình đó chẳng có giá trị gì trong sự đánh thức trí tuệ bừng khởi và làm
cho các hạt giống thiện nhân trong tâm thức đâm chồi hay nảy lộc bằng sự hóa
hiện các hạnh lành được thực hiện bởi các hành động, lời nói, ý nghĩ. Như câu
chuyện người bị trúng mũi tên độc, vấn đề cấp thiết là phải rút mũi tên ra khỏi
bệnh nhân, chứ đừng vội vã đặt ra các câu hỏi như mũi tên từ đâu đến, sao lại
bị nhiễm độc, ai khởi tâm bắn? Cũng thế vấn đề cấp thiết nhất của người học trò
cần tiếp nhận là nội dung giáo dục có tính thiết thực hiện tại, giải thoát khổ
đau được soi rọi bằng trí tuệ bừng khởi mà người Thầy dày công hướng dẫn.
Tất nhiên, sự
thành tựu mà người học trò đạt được đó là kết quả hai chiều của người trao và
người nhận. Thế Tôn từng khuyến cáo Ngài chỉ là người Thầy hướng dẫn để học trò
thực thi đúng nội dung những gì đã tiếp nhận. Vị Thầy của chúng ta thường dạy
“Hãy trở về nương tựa hòn đảo chính mình, nương tựa Pháp” bằng cách thực thi
con đường Bát Thánh đạo, nền tảng của Giới-Định-Tuệ. Mỗi bước đi ra ngoài vùng
tâm lý tham, sân, si, giải trừ nô lệ, xây dựng tinh thần độc lập tự chủ cho mỗi
cá thể. Một vị Thầy như thế sẽ đào tạo ra biết bao nhiêu thế hệ học trò làm chủ
xã hội vì hạnh phúc của nhân dân, trong đó có hạnh phúc của chính mình.
Cần nói thêm rằng
sở dĩ người học trò lãnh hội và liễu đạt trọn vẹn nội dung giảng dạy mà người
Thầy đã truyền đạt là nhờ có phương pháp, kỹ thuật trao truyền đạt hiệu quả
cao. Thế Tôn là người Thầy biết xây dựng lòng tự tin của người học trò và khai
thác khả năng tiềm ẩn sẵn có của người học trò đó. Trong những trường hợp cần
thiết, Thế Tôn đã tự thân khích lệ hay xác chứng thành quả đạt được mà người
học trò đã thực hiện. Tài năng chỉ hóa hiện khi lòng tự tin được xác lập cộng
chung pháp học đi đôi với pháp hành. Con người trong chừng mực nào đó có thể
thiếu lòng tin với người khác nhưng vắng lòng tin của chính mình thì sẽ đi đến
sự hủy diệt tất cả. Ngài chính là vị Thầy khuyến cáo Tăng chuíng không nên xem
thường các vị Tỳ kheo trẻ tuổi, chính các vị là người rống tiếng rống con sư tử
chúa tể sơn lâm trong cuộc hành trình giải thoát tự thân, chứng đắc các quả vị
Thánh để khích lệ những người chưa chứng ngộ.
Chính áp dụng kỹ
thuật truyền đạt này đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm khảm người học
trò. Thiết lập lòng tự tin, khai mở khả năng tiềm ẩn, khích lệ người học trò đã
được diễn dịch bằng những pháp thoại sống động dễ hiểu mà người Thầy vận dụng.
Thế Tôn từng huấn thị “Ta là vị Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”.
Điều đó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với người học trò như là thông điệp nhắn
gởi: “Tự thân tu tập tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ sự thật chân lý sẽ là
nhân tố quyết định”:
“Ai sống ở đời
này
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét