Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

TƯ LIỆU KHÓA IV - HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI SÀI GÒN (TT)


Sep 17, 2012 7:33 AMPublicPageviews 17 0


TƯ LIỆU KHÓA IV
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI SÀI GÒN (TT)

HÌNH ẢNH HỌP MẶT CỰU TĂNG NI SINH KHÓA IV - 2003






















































Kỷ yếu
Cảm nhận đầu tiên -Gs Tiến sĩ Mai Trần Ngọc Tiếng
Danh sách
Chương trình
Địa chỉ liên hệ
Lời cuối

LỜI NÓI ĐẦU  (^)

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Vạn Hạnh Thiền sư
Thịnh suy, hợp tan là lẽ thường tình. Sau những năm tháng được ở bên nhau chung lòng học tập cũng phải đến lúc bùi ngùi chia tay. Có quá nhiều hoài niệm đẹp! Làm gì đây để lưu giữ lại tháng năm thân thương kia để khỏi hối tiếc khi dòng vô tận của lãng quên cuốn trôi?
Không ngoài ý nguyện: Xây dựng một hiện tại bền chắc, tự tin hướng đến một tương lai xán lạn.
Chư huynh đệ thân mến,
Hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta ngồi lại với nhau lần cuối, cùng hồi tưởng về những kỷ niệm điệp trùng trong suốt bốn năm qua ...
Nhớ mãi những phút giây hồi hộp, lo âu khi bước vào phòng thi tuyển sinh, nỗi mừng vui khi “dò” được tên mình trên “bảng vàng”. Nỗi bồi hồi xúc động trong tiết học đầu tiên tại Giảng đường Học Viện, với nhiều gương mặt sáng ngời, hứa hẹn những mối tâm giao quý báu! ...
Và, cái khó khăn, cái gian nan cũng dần dần xuất hiện trong sinh hoạt tại trú xứ, trường lớp với những môn học đòi hỏi phải đầu tư thời gian sức lực. Ôi, căng thăng của những kỳ thi nghiêm ngặt, kéo dài nhiều môn ... biết kể sao cho hết!
Nhiều biết bao những nỗi niềm xao động của thời sinh viên ngồi dưới mái Học viện!
Giây phút này, xin được lạm dùng từ “chia tay” để kết thúc một giai đoạn đã qua, một quãng đời chứa đầy nhiệt huyết với nguyện ước: Về một mùa hoa trái bội thu.
Mà kỳ thực trong bốn năm miệt mài qua, chư ân sư giáo thọ, giáo sư không quan lo nhọc, đã tận tụy truyền trao biết bao kiến thức, khả năng quý báu. Chư vị đã chu đáo trang bị đủ đầy cho đàn hậu lai của mình tư lương sung mãn để bước vào đời sống, tiếp nối ngọn truyền đăng bất diệt: Từ, Bi, Trí, Tuệ của Đức Phật làm quang rạng sự sống muôn loài, dâng tặng nguồn hạnh phúc, an lạc vô tận cho khắp nhân gian.
Ngưỡng bạch chư Tôn đức,
Kính thưa quý Liệt vị,
Tập Kỷ Yếu này là món quà nhỏ kính dâng lên chư Tôn đức và quý liệt vị trong ý thức “Tri ân và Lưu niệm” mà toàn thể Tăng Ni sinh khóa IV-Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon đã đem hết sức lực, tâm lực để sớm hoàn thành nhân dịp Lễ phát văn bằng Cử nhân Phật học.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong suốt quá trình biên tập, những sai sót không sao tránh khỏi được. Ngưỡng mong chu Tôn Đức và quý Liệt vị lân mẫn hoan hỷ.
Sau cùng, Ban Biên tập chúng tôi cũng hy vọng tập Kỷ Yếu này đến tay mọi người trong niềm hỷ lạc chung hướng một lý tưởng: lý tưởng vì lợi ích chung. Tin tưởng sâu sắc về cuộc tương ngộ vào một ngày mai huy hoàng.
            “Xuân lai, xuân khứ, nghi xuân tận
            Hoa lạc, hoa khai, chỉ thị xuân”.
                        Chân Không Thiền sư.
Mong sao tập Kỷ Yếu luôn là nguồn hứng khởi dạt dào, thú vị.
Kính chúc chư Tôn Đức Thân Tâm Thường Lạc.
Kính chúc quý Liệt vi luôn an lành khương thái.
Thân chúc quý huynh đệ thành đạt mọi sở nguyện trên bước đường phụng sự của mình.
Học Viện, ngày 15/05/2001.
BAN BIÊN TẬP KỶ YẾU

DIỄN VĂN KHAI GIẢNG

NĂM THỨ NHẤT KHÓA IV
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM tại Saigon

Do Hòa Thượng Viện Trưởng tuyên đọc ngày 25.6.1997

- Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật,
- Kính bạch chư Tôn giáo phẩm, chư Hòa thượng,
- Kính thưa chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
- Kính thưa quý vị Giáo sư,
- Kính thưa chư vị Khách quý,
- Thưa quý Phật tử cùng Tăng, Ni sinh khóa IV thân mến!
Kính toàn toàn thể qúy vị,
Hôm nay, ngày khai giảng năm thứ nhất khóa IV, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon, Hội đồng Điều hành Học Viện và toàn thể Tăng Ni sinh khóa IV hân hạnh được nghênh đón chư tôn Giáo phẩm, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và toàn thể quý vị quang lâm chứng minh, dự lễ thể hiện sự quan tâm và khích lệ đặc biệt dành cho Tăng Ni sinh. Thay mặt tập thể Hội đồng Điều hành Học Viện, chúng tôi xin gửi đến quý vị lời chào trân trọng và lời cầu chúc tốt đẹp nhất của chúng tôi.
Kính thưa quý vị,
Thế là 12 năm đã trôi qua, 12 năm Trường đã đào tạo 59 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa I, 101 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa II, và 234 Tăng Ni sinh tốt nghiệp khóa III. Lễ cáp phát văn bằng tốt nghiệp Khóa III đã được tổ chức trọng thể để đánh dấu các thành quả giáo dục đáng nhớ như là chuẩn bị cho một hướng phát triển mới đại học và hứa hẹn theo hướng đi lên của Giáo Hội và xứ sở.
Nay khóa IV có 251 Tăng Ni sinh trúng tuyển chính thức và 39 Tăng Ni sinh được đề nghị với theo các diện chính sách. Đây là kết quả của một quá trình tổ chức chiêu sinh và thi tuyển được thực hiện chu đáo theo đúng các yêu cầu của một kỳ thi tuyển vào đại học. Hôm nay là ngày mở đầu cho một chặng đưòng của bốn năm học mà sẽ nói lên khá đầy đủ tiếng nói “giáo dục đại học” của Phật Giáo, một chặng đường của hy vọng mở được hướng học tập cho các Tăng Ni sinh đã tốt nghiệp trong các Khóa học qua.
Kính thưa quý vị,
Nói đến việc mở hướng giáo dục là nói đến các yêu cầu phát triển giáo dục jiện nay của Giáo hội, đó là công việc hoàn chỉnh một hệ thống sách giáo khoa, hoàn chỉnh nội dung giảng dạy, hoàn chỉnh đội ngũ giảng sư cơ hữu, hình thành một thư viện đại học, một hệ thống trường ốc và một cơ cấu cung ứng ngân sách an toàn. Tất cả đó là trọng trách, gánh nặng của Học Viện.
Về đường hướng nội dung và phương pháp giáo dục, giáo lý Phật Giáo sẽ cung ứng đầy đủ như có nhiều dịp trước đây chúng tôi đã trình bày. Phật Giáo vốn có một đường hướng, nội dung, và phương pháp giáo dục thực sự trí huệ, nhân bản và hiện thực hữu ích cho đời, nói lên được sự thật của thiên nhiên, xã hội, môi sinh, con người, khổ đau và hạnh phúc và đề bạt được một nếp sống, nếp văn hóa đầy nhân ái, vị tha vì an lạc, hạnh phúc lâu dài cho số đông. Đó là những gì của Giới đức, Tâm đức và Tuệ đức hay Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ, có khả năng phát triển sức mạnh của tâm lý, trí tuệ, sáng tạo, lòng nhân ái, vị tha và bao dung của con người.
Về chuyên viên giảng huấn cơ hữu, nội dung giảng dạy và sách giáo khoa, tất cả sẽ được đáp ứng trong một tương lai không còn lâu xa nữa. Như quý vị đã biết, hiện nay Học Viện đã có một Tăng sinh Khóa I vừa tốt nghiệp Tiến sĩ Phật học, một Ni sinh Khóa I sắp tốt nghiệp Tiến sĩ, hai Tăng sinh khác của Khóa I sẽ tốt nghiệp Tiến sĩ trong một một năm rưỡi tới; 16 Tăng, Ni sinh Khóa II đang khởi đầu biên soạn luận án Tiến sĩ Phật học để bảo vệ vào hai năm tới tại Ấn Độ; 5 Tăng Ni sinh khác Khóa II vừa tốt nghiệp Cao Học Phật Học cũng tại Ấn Độ, một Tăng sinh Khóa II vừa tốt nghiệp Cao học tại Nhật Bản, một sắp tốt nghiệp Cao học, cũng tại Nhật Bản, một đang theo học Cao học tại Paris, Pháp; một số Tăng Ni sinh Khóa II đang theo học Hoa Ngữ và ngành Phật học Trung Hoa tại Đài Loan.
Năm nay có thêm 50 Tăng Ni sinh khóa III đã có giấy phép nhập học tại Delhi Ấn Độ va đang tiến hành các thủ tục du học. Với đà phát triển ấy, chừng 3 đến 6 năm tới, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam sẽ có một đội ngũ giảng sư và nghiên cứu cơ hữu cho ngành Trung học và Đại học Phật Giáo. Tình hình này đòi hỏi công tác biên soạn giáo khoa, xây dựng trường ốc và ngân sách sớm được thực hiện. Tất cả đang trông chờ vào sự hộ trì giáo dục Phật Giáo của toàn thể quý vị.
Kính thưa quý vị,
Bên cạnh nỗi lo, chúng ta có được niềm tin mà Chánh Pháp ban cho. Thật là ngạc nhiên khi khám phá ra rằng những lời dạy giải khổ đau của Đức Phật lại bao hàm phong phú các phương pháp và tinh thần giáo dục tân tiến, bao hàm cả phương thức khảo cứu và các trắc nghiệm tâm lý rất khoa học. Chỉ một từ ngữ Phật học “Tứ vô ngại giải” (Từ vô ngại, Nghĩa vô ngại, Pháp vô ngại, Nhạo thuyết Biện tài vô ngại) đã bao hàm các chuẩn mức sư phạm của một giáo sư. Chỉ một định nghĩa vể Sắc pháp - nội sắc gồm cơ thể vật lý của cá nhân; ngoại sắc là thế giới vật lý - đã bao hàm một triết lý về môi sinh và cho đáp án cho cuộc khủng hoảng môi sinh và xã hội. Chỉ một tập kinh 80 trang của Tiểu bộ kinh - Các câu chuyện Chư Thiên - đã bao hàm các bước đi của công tác nghiên cứu khoa học (Reseach Methodology) và nhiều bài học về nhân quả, nhân ái, vị tha. Chỉ trong một trang Kinh Từ bi đã bao hàm những trăn trở về tinh Người của các giải thưởng Nobel Văn học v.v...
Còn có rất nhiều, rất nhiều các gợi ý hữu ích, ý nghĩa khác từ Kinh tạng Phật Giáo mà con đường phát triển giáo dục của Phật Giáo sẽ cống hiến.
Kính thưa quý vị,
Mười hai năm qua, dù làm giáo dục giữa các nhân duyên giới hạn, nhà Trưòng cũng đã gặt hái một số thành quả nhất định như đã được trình bày. Đạt được kết quả ấy là do nhờ có sự quan tâm giúp đỡ của Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban Tôn giáo Saigon, chính quyền các cấp, và nhờ sự hỗ trợ tinh thần và vật chất của Chư Tôn Giáo Phẩm, chư Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni và quý Phật tử. Thay mặt tập thể Học Viện, chúng tôi xin chân thành bày tỏ nơi đây lòng biết ơn sâu xa nhất của chúng tôi.
Nay chúng tôi xin được nói chuyện với Tăng Ni sinh khóa IV.
Các con thân mến,
Hai tháng rưỡi qua là thời gian vất vả của các con tập trung vào việc thi tuyển. Nay sự vất vả đã được đền bù. Thầy rất hiểu tâm trạng thi đỗ và trượt của Tăng Ni sinh. Thầy cũng hiểu tấm lòng của các bậc Sư trưởng, phụ huynh đối với các con về kết quả thi tuyển. Hơn năm mươi năm qua sống trong thế giới của học đường đã khiến Thầy ái ngại mỗi lần tổ chức thi cử và mỗi lần công bố kết quả thi cử. Hình như có những hạt nước mắt ở đấy mà một nhà giáo dục phương Tây gọi là “Trường của nước mắt”. Đã bao lần Thầy và Hội đồng Điều hành nghĩ đến một “Học đường không nước mắt”, nhưng chỉ thấy đấy là hình ảnh của ước mơ hơn là hiện thực. Biết làm thế nào khác được? (!). Thi cử là hình thức cần có để đo đạc chất lượng và phát triển chất lượng giáo dục; hơn thế nữa Thầy và Hội đồng điều hành đang có ý giới thiệu chất lượng giáo dục đại học của Học Viện Phật Giáo chúng ta, cái chất lượng bảo đảm giá trị Văn bằng và giá trị mở hướng hậu đại học. Chất lượng càng cao thì tỉ lệ trúng tuyển càng thấp, và nỗi buồn thi trượt càng nhiều. Điểm này đã tạo nên một ít ray rứt tâm hồn của một nhà giáo dục Phật Giáo, một nhà giáo dục nhân bản, đã khiến cho một nhà giáo dục tổ chức thi cử lại mang tâm trạng, nỗi niềm của một người thi trượt. Thế đấy! Với tâm trạng của một người thi trượt, Thầy chúc các con tiếp tục nổ lực để gặt hái những thành công lớn hơn trong học tập. Thầy cũng chân thành cầu chúc hết thảy Tăng Ni sinh đã dự thi tiếp tục nỗ lực đi tới trên đường học vấn của mình, bởi trước mắt chúng ta luôn có những cánh cửa khác mở như một ngạn ngữ phương Tây đã nói: “Khi cánh cửa này khép lại thì cánh cửa khác mở ra”. Môi trường học tập nào trên quê hương chúng ta cũng cho ta các bài học giá trị. Tương lai của Giáo hội đang chờ đợi các thành quả học tập của các con. Thầy tin rằng khi ngân sách giáo dục của Học Viện khấm khá, thì nỗi buồn thi trượt của các Tăng Ni sinh không thể kéo dài  hơn 1 hay 2 năm. Thầy đang muốn nói đến việc rút ngắn khoảng thời gian chờ đợi giữa hai kỳ thi tuyển vào đại học Phật Giáo.
Chúc các con thành công.
Kính bạch chư Tôn Giáo phẩm, chư Hòa thượng,
Kính thưa chư Thượng tọa, Đại đức Tăng Ni,
Kính thưa quý vị Giáo sư,
Kính thưa chư vị Khách quý,
Thưa quý Phật tử,
Thưa toàn thể quý vị,
Sự nghiệp giáo dục của Phật Giáo là sự nghiệp Trí tuệ. Sự nghiệp này được xây dựng trên cơ bản của Giới đức và Định đức, nhưng cũng cần được xây dựng trên năng lực hộ trì của tất cả vật lực và tài lực. Chúng tôi mong rằng các thực thể trong Học Viện Phật Giáo chúng ta, bao gồm Hội đồng Điều hành Học Viện, Văn phòng, Ban Bảo trợ, Ban Giảng huấn và tập thể Tăng Ni sinh sẽ mở đầu khóa học, và đi vào khóa học với một sự đoàn kết chặt chẽ và một sự hòa điệu nhịp nhàng vì lợi ích của Phật Giáo và của xứ sở.
Chánh pháp luôn luôn là niềm tin của chúng ta. Với niềm tin này, chúng tôi xin trân trọng tuyên bố khai giảng năm học thứ nhất của Khóa IV, Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Xin cảm ơn toàn thể quý vị.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

ĐẠO TỪ

CỦA HÒA THƯỢNG TRƯỞNG BAN GIÁO DỤC TĂNG NI
NHÂN DỊP LỄ KHÁNH THÀNH CƠ SỞ MỚI
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM tại SAIGON.
- Kính bạch chư Tôn giáo Phẩm, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni,
- Kính thưa chư vị khách quý đại diện chính quyền, Đoàn thể, Ban ngành,
- Kính thưa Hội đồng Điều hành Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon,
- Thưa quý vị Phật tử, cùng các Tăng Ni sinh.
Tôi vô cùng hân hoan được tham dự buổi lễ Khánh Thành Cơ Sở Mới của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon được tổ chức trang nghiêm, long trọng và đầy đạo vị này. Tôi không ngăn được niềm hỷ lạc khi nhìn thấy tòa kiến trúc mới khá đồ sộ, vững chãi với sự hài hòa giữa tính hiện đại và tính truyền thống trong nghệ thuật và kỹ thuật xây dựng, tạo thành một hình ảnh độc đáo tổng hợp của sự tiện nghi và mỹ thuật. Tôi lại càng vui mừng vì thấy được không khí đầm ấm hôm nay với sự hiện diện quý báu và chân tình của chư Tôn giáo Phẩm, chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, Chư vị đại diện chính quyền, Đoàn thể ban ngành, chư vị Phật tử và đặc biệt là Thượng Tọa Thích Quảng Tâm cùng chư vị đại diện Hội Phật giáo Đồng Tu Đài Bắc, Đài Loan là ân nhân lớn đối với nhiều công trình Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, cụ thể là của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon đã được sự ủng hộ của đông đảo các giới, các ban ngành và quần chúng.
Sụ thành tựu này, một lần nữa chứng tỏ hiệu năng của tinh thần vượt khó, ý chí phấn đấu và sức xoay sở, vận động của Học Viện Phật giáo Việt Nam Saigon, của Hòa Thượng Viện trưởng Thích Minh Châu, người mà nhiều chục năm qua đã đóng góp tích cực cho Phật giáo Việt Nam, qua những công trình dịch thuật, nghiên cứu Kinh tạng, qua nổ lực tham gia lãnh đạo và đặc biệt qua việc phát triển giáo dục Phật giáo Việt Nam.
Thế là từ nay, Học Viện Phật giáo Việt Nam đã có một kiến trúc tốt đẹp phù hợp với một cơ sở đại học mà mọi sinh hoạt hiển nhiên là thuận tiện hơn trước đây nhiều. Dĩ nhiên, một cơ sở khang trang và tiện nghi không phải là yếu tố chủ yếu quyết định sự thành công của Học Viện mà điều quan trọng nhất vẫn là sự tổ chức, vấn đề nhân sự và chất lượng sinh hoạt, giảng dạy và học tập. Đến đây, tôi xin được nhắc lại một số nét cơ bản về giáo dục Phật giáo mà lâu nay Giáo hội xem là nền tảng trong giáo dục và đào tạo Tăng Ni.
Từ giáo dục chỉ xuất hiện tại Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 và cũng như nhiều từ khác của văn hóa, khoa học phương Tây được người Nhật dịch ra tiếng Nhật theo cách viết chữ Hán và lại được người Trung Hoa chấp nhận và sử dụng. Trong Phật giáo, tương đương với từ “Giáo Dục” ta thấy có cả một nhóm từ đồng nghĩa: Cảm hóa, khai hóa, nhiếp hóa, khuyến hóa, thí hóa, khuyến giáo v.v... Tất cả những từ trên đều đặt trách nhiệm vào người Thầy, người thực hiện giáo dục nhằm giúp người học tiến vững trên con đường giải, diệt trừ các ác pháp, tăng trưởng các pháp thiện, bằng sự thực hiện Giới-Định-Tuệ. Mặt khác, từ “Học” đã xuất hiện từ lâu ở Trung Quốc, cũng như ở Việt Nam và nhiều nơi khác chỉ sự tìm hiểu, thọ nhận giáo dục, nghiên cứu, thực hành theo. Trong Kinh sách Phật giáo, từ “Học” nhằm chỉ tính cốt yếu và thực tiễn của việc tu hành, chỉ sự nghiên cứu chân lý để đoạn trừ vọng tưởng và lậu hoặc. Học là nhằm thu thập nội dung đồng thời là mục tiêu Giới, Định và Tuệ bao gồm việc Văn (nghe) Tư (suy nghĩ), Tu (thực hành). Cho nên Học được xem là đồng nghĩa với tu học, tu tập, tu đạo, tu hành, đều nhằm đến sụ hướng thiện, tiến bộ, và giải thoát. Tạp A hàm quyển thứ 14 ghi lời Phật dạy: “Vị tỳ kheo ấy yểm ly dục, hướng về diệt tận, đấy gọi là học”. Như thế, việc Học trong Phật giáo chỉ nhằm mục đích tối hậu là giải và học để hướng thiện, là để hành cho tốt đẹp, viên mãn. Đây chính là ý nghĩa đạo đức nổi bật trong Phật học.
Học là học hành, là tu hành, là áp dụng cái sở tri vào thực tiễn và tu là tự tu, chứng là tự chứng; điều này muốn nhắc nhở người học phải tự nổ lực, tự phát huy và áp dụng sự hiểu biết của mình. Rõ ràng đây là tính thực tiễn, tính tự nhiên và dân chủ được các nhà giáo dục mới hô hào kể từ hậu bán thế kỷ 18 ở phương Tây, từ thế kỷ 19 ở phương Đông cho đến ngày nay.
Trong thế kỷ 20, Phật giáo phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các nước Âu Mỹ, rất nhiều trường đại học lớn trên thế giới đã nghiên cứu và đưa Phật học vào giảng dạy, thành lập những phân khoa Phật cò đông đảo sinh viên theo học. Tại Châu Á, ngoài các đại học Tổng hợp, còn rất nhiều trường đại học Phật học ở Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Thái Lan v.v... Tại Việt Nam, hiện có ba Học Viện Phật giáo Việt Nam: ở Hà Nội, Thành phố Huế và Saigon, đang có tổ chức và sinh hoạt theo thể cách của những Trường đại học Phật giáo. Điểm đặc biệt là, cũng như các Trung Cấp Phật học, các Học Viện Phật giáo chỉ nhằm giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Từ đó, một nội dung giáo dục cần được nêu rõ là giáo dục đạo đức, là rèn luyện phẩm chất của người tu sĩ Phật giáo, là sự xông ướp giới hạnh, là việc tu trì giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa. Kinh nghiệm cho ta thấy những Tỳ kheo phải trở lại thế tục phần lớn là người người có học thức, được nhiều người biết đến danh tiếng, có được sự sống vật chất khá đầy đủ mà như đức Phật đã dạy, đó là nguyên nhân đưa đến sự phạm pháp hữu lậu khiến Ngài phải vì hàng Tỳ kheo mà kiết giới. Do đó, mọi cơ sở giáo dục Phật giáo trước hết cần phải là một cơ sở giáo dục về Đạo đức Phật giáo.
Kính thưa Chư liệt vị,
Đã 14 năm trôi qua kể từ khi thành lập Cao Cấp Phật học Việt Nam và chuyển đổi thành Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon, cơ sở giáo dục này đã phát triển không ngừng và đạt được những thành tựu khả quan. Tôi hết sức tán thán khả năng cao, nổ lực lớn và kinh nghiệm phong phú của Hòa Thượng Viện Trưởng và của Hội đồng Điều hành Học Viện. Tôi cũng đã thông cảm những khó khăn, đặc biệt là khó khăn về cơ sở vật chất, vì chính tự thân tôi cũng đã và đang gặp phải khi tổ chức các khóa Phật học, trường Cơ bản Phật học và Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Huế. Đến nay thì với tòa kiến trúc mới này nhất định những khó khăn như trên sẽ vơi đi nhiều và chúng ta có thể tin tưởng rằng Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon xứng đáng là nơi sinh hoạt của một cơ sở giáo dục hàng cao cấp nhất của Giáo hội, nổi bật trong ngành giáo dục Tăng Ni và sẽ không ngừng đạt những thành quả tốt đẹp, góp phần xây dựng, phát triển hữu hiệu cho Đất nước và cho Giáo hội. Xin cảm ơn toàn thể Quý vị.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


Vài nét về:

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM tại SAIGON

Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon tọa lạc số 716, Nguyễn Kiệm, P.4 Quận Phú Nhuận, Saigon. Đây là một cơ sở giáo dục cấp Đại học, Giáo hội Phật giáo Việt Nam  (Học Viện PG Việt Nam tại Hà Nội, Học Viện PG Việt Nam tại TP Huế), được thành lập từ ngày 25 tháng 02 năm 1982 theo Nghị quyết phiên họp thứ nhất của Ban Thường trực Hội đồng Trị sự Trung ương và theo Quyết định 0160/QD ngày 17 tháng 03 năm 1983 của Ủy ban nhân dân Saigon. Mục đích của Học Viện là nhằm đào tạo những Tăng Ni có kiến thức Đại học về giáo lý căn bản của các bộ phái Phật giáo, lịch sử Phật giáo Việt Nam và văn hóa (Phật giáo) Việt Nam, để sau khi tốt nghiệp Cử nhân Phật học có thể tiếp tục học cấp Cao học, Tiến sĩ, trở thành nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu Phật học, hoặc đảm trách các công tác chuyên môn, Phật sự tại Trung ương Giáo hội, Ban Trị sự tại các Tỉnh, Thành trong toàn quốc.
Hệ thống tổ chức của Học Viện Phật giáo tại Saigon gồm có Hội đồng Điều hành, Ban Học vụ, Ban Giảng huấn, Văn phòng Điều hành, Ban Đại diện sinh viên và Ban Bảo Trợ. Theo quy chế thì Học Viện thu nhận Tăng Ni sinh trên toàn quốc theo một số tiêu chuẩn sau:
1.- Tăng Ni sinh thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, được sự giới thiệu của Giáo hội và Ban Tôn giáo cấp Tỉnh Thành, và chính quyền địa phương xác nhận.
2. Tốt nghiệp trường Cơ bản Phật học (nay là trường Trung Cấp Phật học) và tốt nghiệp phổ thông trung học (tú tài), đã thọ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.
3.- Trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh vào Học Viện gồm ba môn thi: Phật pháp căn bản; Văn học Việt Nam, Anh ngữ (chương trình lớp 12 hiện hành).
Học Viện Phật giáo Việt Nam theo chế độ niên chế, kéo dài trong 4 năm, mỗi năm học có hai học kỳ, mỗi học kỳ kéo dài bốn tháng rưỡi. Cuối mỗi học kỳ đều có thi kiểm tra cuối học kỳ. Điểm trung bình của hai học kỳ mỗi năm phải đạt điểm 10/20 mới được cấp chứng chỉ cuối năm và được học tiếp năm kế tiếp. Các sinh viên Tăng Ni nếu đạt yêu cầu trong 4 năm học sẽ được cấp 4 chứng chỉ và hoàn thành luận văn tốt nghiệp sẽ được Học Viện cấp văn bằng Cử nhân Phật học.
Chương trình học của Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Saigon được phân bổ trong 4 năm. Mỗi năm Tăng Ni sinh học trong 9 tháng, mỗi tháng 4 tuần, mỗi tuần 24 tiết. Số học trình Tăng Ni học mỗi năm tương ứng 864 tiết, hoàn tất chưong trình 4 năm là 3456 tiết. Cụ thể như sau:
Phần Nội điển:
- Kinh luật, Luận Phật giáo - chuyên sâu về các giáo lý căn bản như Duyên khởi, Tứ đế, Nhân quả, Nghiệp báo, Tái sinh, Ngũ uẩn, Thập Nhị xứ, Thập bát giới.
- Một số kinh tiêu biểu của Thượng Tọa Bộ, Nhất Thiết Hữu Bộ, và Phật giáo phát triển.
- Lịch sử tư tưởng các bộ phái (hay Tông phái Cương yếu) - Giới luật của ba bộ phái - Văn học Phật giáo Việt Nam - Lịch sử Phật giáo Việt Nam - Thực tập thiền định.
Phần Ngoại điển:
Gồm các môn học thuộc chương trình Đại học Đại cương như: Lịch sử Việt Nam, Văn học Việt Nam, Thẩm mỹ học, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Văn minh Việt Nam, Đại cương Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Môi sinh học, Tôn giáo học, Công dân giáo dục, Xã hội học, Triết Đông, Triết Tây, Triết học Mac Le-nin, Giáo dục học, Quản trị hành chánh. Ngoài ra, trong chương trình học còn có các môn học cổ ngữ và sinh ngữ như: Sanskrit, Pàlì, Hán cổ, Hoa văn, Anh văn thuật ngữ và Anh văn thực hành.
Phần chuyên môn:
Một số kinh tiêu biểu của ba bộ phái thuộc hệ Nikàya, A hàm, và Đại Thừa Phật giáo (Pháp Hoa, Viên Giác, Kim Cương, Hoa Nghiêm, Lăng Già, Bảo Tích)... Lịch sử tư tưởng các bộ phái (hay các tông phái của đạo Phật), Giới luật căn bản của ba bộ phái, Văn học Phật giáo Việt Nam, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Thiền học Việt Nam, Thiền học thực hành, Luận lý học Phật giáo (hay Nhân minh học Phật giáo), Luận A tỳ đàm, Luận Thanh tịnh đạo, Duy thức luận, Luận Câu xá, Luận Trung quán, Văn học Phật giáo thế giới, Lịch sử Phật giáo thế giới.
Ngoại khóa và luận văn tốt nghiệp:
Ngoài chương trình học chính thức với các môn học vừa nói trên, Học Viện còn tổ chức chưong trình ngoại khóa do các Giáo sư, Học giả, Tiến sĩ trong và ngoài nước đến thuyết giảng về các đề tài Phật học và các đề tài khác có liên quan đến Phật học như Văn học nghệ thuật và Mỹ thuật, Hội họa, Âm nhạc, Xã hội, Môi trường, Hiến pháp, Sinh hoạt Đại học v.v... nhằm bổ túc kiến thức cho Tăng Ni sinh. Bên cạnh đó, Ban Học vụ và Ban Giảng huấn còn tổ chức hướng dẫn cho Tăng Ni sinh làm Luận văn tốt nghiệp theo yêu cầu ở cấp Cử nhân Phật học.
Tứ lúc thành lập đến nay, Học Viện Phật giáo Việt Nam đã và đang đào tạo 4 khóa cấp Cử nhân Phật học. Khóa I (1983-1987) có 60 sinh viên. Khóa II (1988-1992) có 100 sinh viên. Khóa III (1993- 1997) có 234 sinh viên. Khóa IV (1997-2001) có 287 sinh viên đang theo học và sắp sửa tốt nghiệp.
Sau khi tốt nghiệp Cử nhân Phật học, nhiều sinh viên tiếp tục chương trình hậu Đại học (Thạc sĩ vả Tiến sĩ) tại các nước như: Ấn Độ (có 120 sinh viên), Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp và Tích Lan. Trong vòng hai năm nữa, số Tăng Ni sinh tốt nghiệp của Học Viện sẽ trình xong Luận án Tiến sĩ tại nước ngoài lên đến 50 vị. Trong thời gian tới Học Viện sẽ hoàn chỉnh cơ sở mới với kinh phí xây dựng trên 10 tỷ đồng Việt Nam, tiến tới mở cấp đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ Phật học. Tất cả mọi nổ lực của Học Viện là nhằm đào tạo đội ngũ Tăng Ni sinh thích ứng với nhu cầu phát triển mới của đất nước và Giáo hội, Học Viện thiết tha kêu gọi các tổ chức và cá nhân Phật tử cùng với các thành viên Ban bảo trợ, đứng đầu là vị Trưởng Ban Đạo hữu Nguyên Đào nổ lực đóng góp để Học Viện ngày càng thăng tiến trong công cuộc giáo dục và đào tạo Tăng Ni trẻ.

Thượng Tọa Thích Chơn Thiện

Phó viện trưởng thường trực
(Thân tặng Tăng Ni sinh khóa IV)
I. Vào đề:
Tâm lý con người có hai hướng vận hành: một là khổ đau hay dẫn đến khổ đau, hai là hạnh phúc hay dẫn đến hạnh phúc. Hướng thứ nhất mở ra một thế giới tâm lý của sinh tử; hướng thứ hai mở ra thế giới tâm lý của giải. Bởi sống là đi tìm hạnh phúc chân thật, nên con người chỉ có một chọn lựa là đi vào hướng vận hành thứ hai. Đi vào hướng vận hành này là đi vào trí tuệ, hay đi từng bước đi trí tuệ. Thực hiện con đường thứ hai này có nghĩa là “xây dựng vương quốc trí tuệ” của Phật giáo mà thuật ngữ gọi là Dhammacakkapavattana, thường được dịch là “Chuyển vận bánh xe Pháp”.
Trong bài viết này, tác giả sẽ giới thiệu ngắn, gọn về hai hướng vận hành của tâm lý nói trên.
II. Hai hướng vận hành của tâm lý:
Có nhiều kinh Nam tạng và Bắc tạng nói đến các hướng tâm lý vận hành. Ở đây, tác giả nêu dẫn một số kinh tiêu biểu.
1. Kinh Chánh Tri Kiến (Kinh 9, Trung bộ I, Pàli tạng).
Theo kinh Chánh Tri Kiến, do vì con người thường tác ý về các ngã tướng của mọi sự vật, xem các ngã tướng là có thật nên tham tâm, sân tâm và si tâm hiện khởi đẫn đến hệ quả: tâm lý dao động, tác động lên các hành động của thân, lời và ý mà biểu hiện ra mười bất thiện nghiệp nuôi dưỡng Vô minh và Khổ đau. Cứ thế, tâm lý vận hành ra một thế giới của Tam Giới (Tibhava) sinh diệt, của các ngã tướng sinh diệt. Nếu, ngược lại, thường tác ý vô thường tướng, hay như lý tác ý - Yonisomanasikàro - thì tâm lý vô tham, vô sân (hay từ), vô si hiện khởi và điều động các hành động của thân, lời và ý biểu hiện ra mười thiện nghiệp, nuôi dưỡng trí tuệ. Cứ thế, trí tuệ ấy vận hành thành thế giới của tâm lý vắng mặt ngã tướng, ngã tưởng, gọi là Vô sinh. Con đường chỉ có thể và gọi là con đường của “trí quán”.
2. Kinh Kim Cang Bát Nhã:
Nếu để tâm đi vào các ngã tướng thì tham, sân, si dấy khởi và sẽ làm tâm lý dao động, không an trụ. Các ngã tướng ấy có thể được giới thiệu qua tám phạm trù:
a) Ngã tưởng: Tưởng ‘Cái này là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi’.
b) Nhân tưởng: Tưởng rằng có một ngã thể thường hằng luân hồi, tái sinh từ đời này qua đời khác.
c) Chúng sinh tưởng: Tưởng rằng co một ngã thể biệt lập của các hiện hữu, đồng nhất với chính nó qua các thời điểm khác nhau.
d) Thọ giả tưởng: Tưởng rằng bên trong con người có một ngã thể thường hằng tồn tại từ khi sinh đến khi chết.
e) Pháp tưởng: Tưởng rằng có các pháp thực sự hiện hữu.
f) Phi Pháp tưởng: Tưởng rằng có một hiện hữu chân thật ở ngoài các pháp.
g) Tưởng: Tin rằng cái tưởng tạo ra tính chất của các hiện hữu là có thực trong thực tế.
h) Phi tưởng: Tin rằng thế giới chân thật thì ở ngoài tưởng.
Nếu tâm lý không rơi vào tám phạm trù ngã tưởng ấy thì sẽ đi ra khỏi các nhân tố gây ra tâm lý dao động, và sẽ được an trụ. Đấy là những gì mà một Bồ tát hành lục độ Ba la mật phải làm, qua kinh Kim Cương. Đấy là công phu “như lý tác ý”, hay tác ý Vô tướng gọi là “thiền quán”.
3. Pháp Thất Giác Chi (Tương Ưng V):
Con đường thực hiện trí tuệ của Thất Giác Chi tựu trung là:
a) Liên tục tác ý Vô tướng, hay “như lý tác ý” thì sẽ đi đến kết quả: Ngũ triền cái được đoạn trừ.
b) Ngũ triền cái là thức ăn của Vô minh nên khi Ngũ triền cái bị đoạn thì Vô minh đi đến bị đoạn trừ, minh khởi.
c) Nếu tiếp tục thực hành như thế thì Niệm giác chi sẽ hiện khởi và lần lượt dẫn đến Trạch pháp, Hỷ, Khinh an, Định và Xả Giác Chi hiện khởi. Xả giác chi hiện khởi sẽ dẫn đến kết quả Minh và Giải hiện khởi, Vô minh diệt và khổ đau diệt.
III. Kết luận:
Con đường thực hiện trí tuệ của Phật là thế, giản dị là thế. Nhưng, bởi con người có các nhận thức, từ tâm, ý chí và dục vọng khác nhau nên lòng trăn trở khác nhau về ngõ đường thực hiện mà có ra các hệ phái, pháp môn tu khác nhau.
Nếu tất cả đều thấy rõ công phu chính của giải là “như lý tác ý” để hàng phục tâm lý dao động của chính mình, thì sẽ đi ta khỏi cái thắc mắc về bộ phái, về Đại, Tiểu pháp, về sự hư, thật của hiện tượng giới. Bấy giờ vai trò của triết lý sẽ chấm dứt cùng lúc với các quan điểm dị biệt, mùa xuân của tâm thức sẽ ở lại mãi với cuộc đời như là sự kiện “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
Tỳ kheo Thích Chơn Thiện

Thơ Giáo sư Nguyễn Khuê

Chùa Núi

Chùa xưa ẩn khuất lưng đèo,
Phồn hoa dứt nẻo, đèo heo gió ngàn.
Cửa Thiền sạch bụi trần gian,
Trong hư vô nhớ ba ngàn cõi xa.
            Chùa Vô Ưu
            Phiền ưu vốn nghĩa đời
            Lòng tục dẫu rối bời
            Vào cổng chùa thấy Bụt
            Phiền ưu dường nửa vơi
Vô ưu bởi vô cầu
Thơ hứng ngâm vài câu
Kìa trời xanh mây nổi
Và bọt nước sóng xao
            Chùa Lục Dung
Sáu cây đa nào thấy cây đa
Cái lẽ vô thường đã rõ ra
Điện tháp oai nghiêm hương khói tỏa
Tìm đâu bút tích của Đông Pha
Chùa chỉ còn tên suông Lục Dung
Bồ đề không cây, đa cũng không
Đông Pha, Lục Tổ mờ thiên cổ
Kim cổ mang mang nói chẳng cùng.
Ghi chú: Chùa Lục Dung là một ngôi chùa nổi tiếng của Trung Quốc, tọa lạc tại trung tâm thành phố Quảng Châu

Thượng Tọa Thích Giác Toàn
I. Khái niệm về nhân cách:
Một cách tổng quát, nhân cách là tính cách đặc biệt của một con người trong suy nghĩ, cảm nhận và thái độ hành xử của người ấy. Nhân cách bao gồm thể cách thái độ, ý kiến, và được thể hiện trong quan hệ với những người khác. So với hành vi, thói quen thì nhân cách có tính cố hữu hơn và có tính chất lọc từ những gì thu đạt được trong quan hệ của một người với môi trường và xã hội.
Dĩ nhiên, như vẫn thường thấy trong triết học, có nhiều định nghĩa về nhân cách. Trong tâm lý học, nhân cách được hiểu theo hai khía cạnh.
1. Do quan sát, nhân cách được giải thích và xếp loại một cách tương đối về những đặc tính tâm lý của con người.
2. Xét những tính chất khiến mọi người giống nhau hay mọi người khác nhau với những người khác về mặt tâm lý. Từ đó, xét về nhân cách là xét con người thể hiện mình như thế nào và xét đâu là nguyên nhân của sự thể hiện ấy.
Khái niệm về nhân cách đã có từ thời Hy Lạp cổ đại và phát triển cho đến thế kỷ XVI ở Châu Âu, theo đó nhân cách là sự hài hòa của bốn chất lỏng (từ La tinh gọi là humor) là máu, đờm, giận, buồn (giận buồn là biểu hiện của màu mặt) chỉ sự quân bình của tinh thần. Về sau, do yêu cầu chữa trị bệnh kể cả bệnh cơ thể và tâm lý, nhiều lý thuyết về tinh thần và cụ thể là lý thuyết về nhân cách (personality) được đề ra. Đặc biệt yêu cầu về giáo dục nhân cách càng lúc càng trở nên cần thiết khi giáo dục phát triển và những vấn đề con người trong xã hội mới được đặt ra trong những thập niên đầu của thế kỷ XX.
Theo Sigmund Freud (1856-1930), nhân cách gồm dục tính, ngã, và siêu ngã (ld,ego, superego), trong đó dục tính là quan trọng nhất, dục tính tiếp xúc với thế giới đã tạo nên ngã, và từ ngã, có một siêu ngã để đánh giá nó. Dục tính hay bản năng là nguyên nhân và động lực tạo ra nhân cách. Carl Jung (1875-1962) tiếp tục triển khai cái mà Freud gọi là tiềm thức và chủ trương nhân tính vốn hình thành từ những hồi ức gốc (radical memories) mà ông gọi là tiềm thức tích tập (collective unconscious). Do xếp các hồi ức này, Jung phân biệt nhân cách hướng nội và nhân cách hướng ngoại của một con người.
Alfred Adler (1879-1973) nhấn mạnh ảnh hưởng xã hội vào nhân cách và xem đây là phần chủ yếu của nhân cách; phản khác là cái xu hướng muốn tiến đến quyền lực để cân bằng mặc cảm tự ti.
Erich Formn (1900-....?) xem nhân tính là bản năng (như thú vật) và sự tự ti, lý trí và óc tưởng tượng (như con người), đồng thời nhấn mạnh phần ảnh hưởng của xã hội. Carl Rogéry (1902-1987) chỉ chấp nhận cách cư xử như là biểu hiện của nhân tính của một người trong hiện tại đối với hoàn cảnh chung quanh. Trong chiều hướng đó, Rogers nói đến cái quan niệm về ngã hay cái cơ cấu ngã (self-concept hay self-structure).
Nhân cách còn được bàn đến qua các cơ cấu khác nữa kể từ năm 1930 đến nay: Ross Stognné, Goren W. Aliport, Henri A. Marray, Gardner Murphy ... trong khi Erik Erikson có tham vọng tạp hợp các yếu tố sinh học, tâm lý, xã hội thành một học thuyết trọn vẹn về sự phát triển và thay dổi của nhân cách bao gồm suốt đời người.
Thực tế hơn, những cuộc trắc nghiệm tâm lý để tìm hiểu nhân cách bằng sự thống kê (inventories tests) hay sự bày tỏ (phóng chiếu) của người được trắc nghiệm (projective tests) của các trường đại học Mỹ như Minnesota, California (Minnesota multiphasic personality inventory, thematic Apperception test ...) thu được một số thành quả nhất định trong việc khám phá, giáo dục nhân cách. Nhìn chung, giáo dục nhân cách càng lúc càng được coi trọng và có lịch sử lâu dài kể từ thế kỷ trước, nó tiếp tục được dò dẫm, phát triển mãi cho đến ngày nay.
Mục đích của giáo dục phương Tây là để tìm hiểu con người, tâm hồn con người, tâm lý hay bản chất con người, để xây dựng một nhân cách tốt, cải thiện nhân cách chưa tốt. Mục đích này là của giáo dục học, xã hội học, tâm lý học và tâm lý trị liệu, thậm chí cả sinh lý trị liệu.
Tuy nhiên, hiện nay một định hướng cho con người vẫn chưa cụ thể rõ ràng và những căn bệnh tâm lý, xã hội vẫn có dấu hiệu càng lúc càng trầm trọng. Nếp sống buông thả, phóng đãng, vô định vẫn càng lúc càng nhiều, hiện tượng cuồng tín, sát nhân, tự tử càng lúc càng gia tăng, đó là chưa kể những sa đọa tinh thần, đạo đức trầm trọng khác ... Như thế nghĩa là giáo dục nhân cách của phương Tây và của nhiều nước phương Đông đang bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây chưa được định hướng đúng đắn, chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội, của thời đại.
Chúng ta không phủ nhận những nổ lực đáng kể của phương Tây trong việc nghiên cứu nhân cách. Đó là việc càng lúc càng đào sâu vào bản năng trong tâm lý của con người. Ta thấy bàn đến bản năng, dục tính, đến các thái độ tâm lý, đến cách cư xử, đến ngã, đến siêu ngã, đến sự bẩm sinh, đến ảnh hưởng của môi trường, của xã hội với nhân cách của một người và của một nhóm người, của toàn thể loài người.
Nếu xét nhân cách trong Phật Giáo ta sẽ thấy nhân cách được bàn không chỉ khởi từ bản năng, dục tính mà còn được đào sâu hơn, mở rộng hơn khi xét đến con người ngũ uẩn.
II. Nhân cách trong giáo dục Phật Giáo:
Như đã nói, con người theo quan điểm của Phật Giáo là con người ngũ uẩn, tập hợp của 5 thành tố: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Khi con người có ý thức về mình thì con người đã là một chúng sinh của cõi hữu vi, của thế giới hiện tượng, vô thường, khổ đau, tức là con người được hình thành bằng ngũ uẩn. Vậy, bàn đến nhân cách là bàn đến những nét chung và riêng của những hành vi, của tâm lý, cách cư xử, tính tình của một cá nhân, nghĩa là bàn đến nhân cách hay tính chất của cái tập hợp ngũ uẩn.
1. Con người ngũ uẩn:
Ngũ uẩn gồm sắc (vật chất, hình tướng), thọ (cảm nhận, cảm giác khi tiếp xúc với các sự vật, đối tượng), tưởng (suy nghĩ, so sánh đối chiếu), hành  (vận động, hành động của thân, miệng, ý), thức (cái biết do các quan năng mang lại). Con người theo Phật Giáo là tập hợp của 5 thành tố trên, ngoài ra không có gì khác. Tập hợp là một từ bao hàm trong nó ý nghĩa hữu vi, bị điều kiện hay bị chi phối bởi nhân duyên. Mỗi một thành tố tự nó cũng là do nhân duyên, tức là không có cái sắc nào tự đứng một mình, không có cái thọ nào, tướng nào, hành nào, thức nào tự thành lập mà không có sự hiện diện, hỗ trợ của các thành tố khác. Tóm lại, tất cả các thành tố và tập hợp các thành tố đều do nhân duyên, như vậy lý duyên khởi là yếu tính của sự thành lập ngũ uẩn. Và đã như vậy thì tập hợp ngũ uẩn hay con người, xét cho cùng không thể hàm chứa một ngã tính nào cả. Không có ngã tính, không có ngã, và do đó cái gọi là nhân cách con người chỉ là nói tạm thời, qui ước mà thôi. 
2. Nhân cách:
Bản chất của con người là vô ngã, nhưng vì con người là con người của cõi hữu vi, mọi người đều có tâm lý, thái độ, hành xử, tư duy ... giống và khác với những người khác nên chúng ta phân biệt nhân cách người nói chung và nhân cách của một người nói riêng.
Theo quan điểm của đạo Phật, con người là duyên khởi, cụ thể là tập hợp của ngũ uẩn. Con người tự nhận mình có ngã là do thói quen từ vô thỉ, thói quen chấp trước, phân biệt, cho rằng cái tập hợp ngũ uẩn là ngã. Cái thức (A lại da) mang các chủng tử được huân tập từ bao đời bao kiếp được nhận là một ngã-linh-hồn. Cái hoàn cảnh chung của cái sức sống tương tục, hay nói khác đi, là nghiệp hay nghiệp lực của thế giới này (hay cộng nghiệp) khiến người ta có những thái độ, hành xử, tư duy giống nhau, như đau buồn trước sự mất mát, giận dỗi khi bị xúc phạm, vui mừng khi được xứng ý. Như vậy, nghiệp đã tạo ra nhân cách, hay nói khác đi, nhân cách của một người chính là nghiệp của người ấy.
Phật Giáo chấp nhận khá nhiều học thuyết về tâm lý, về nhân cách của các triết gia, các nhà khoa học hiện đại, nhưng điều đặc biệt là Phật Giáo còn đi sâu hơn những học thuyết ấy trong việc xem các bản năng, dục tính, ngã, siêu ngã, tiềm thức có gốc gác trong những đời trước. Trong khi bàn về nguyên nhân của nhân cách trong Phật Giáo, người ta phải đụng chạm đến 12 chi phần duyên khởi, 5 thành tố trong tập hợp ngũ uẩn, 3 tính chất căn bản của con người là: tham, sân, si.
Tham, sân, si là biểu hiện của tự ngã sai lầm, của cái ngã khổ đau nhưng lý duyên khởi cho ta biết rằng ngã vốn không, cho nên cái tính không vẫn là bản chất của nó. Mặt khác, vô tham, vô sân, vô si là biểu hiện của cái vô ngã. Đây là hai mặt của một nhân cách. Do hai mặt này, nhân cách không thiện và nhân cách  thiện đều có mặt trong cùng một cá nhân. Thiên và không thiện là hai đặc tính của nhân cách: có gây trở ngại cho cá nhân và cho người khác hay không. Như vậy, thiện hay ác là tính chất của thái độ, cảm xúc, hành động, tâm lý và tư duy của con người nói chung.
Phật Giáo với lý thuyết về A lai da còn quan niệm về nhân cách thứ ba là vô ký (không thiện không ác). Điều này rất quan trọng đối với giáo dục nhân cách, chúng ta sẽ bàn tiếp sau này.
Nhưng đối với một cá nhân là đối tượng của giáo dục thì nhân cách riêng của cá nhân ấy mới là quan trọng. “Bá dân bá tánh” (trăm người là trăm tánh), hẳn là rất đúng trong ý nghĩa rằng mỗi người có một nhân cách riêng, không có hai nhân cách hoàn toàn giống nhau.
Tại sao như vậy?
Ta hãy trở lại tập hợp ngũ uẩn. Do tập khí từ các đời quá khứ và đặc biệt do hoàn cảnh nhân duyên hiện tại, trong đó yếu tố quan trọng nhất là giáo dục mà chức năng vận hành của từng thành tố và “cấu trúc” của 5 thành tố của mỗi người không giống nhau. Việc không giống nhau của 5 uẩn này khiến cho mỗi người có một nhân cách riêng.
3. Giáo dục nhân cách:
Nhân cách, nói cho đến chỗ tuyệt đối là vô ngã. Giáo dục nhân cách là làm sao chuyển cái giả ngã thành ra vô ngã.
Cái giả ngã, cái ta hay nhân cách mà một người tự ý thức về mình là cái không thật, cái gây đau khổ. Cái gọi là “ta” chỉ là do duyên khởi, do tập hợp 5 uẩn mà tạo thành.
Theo Duy thức học, cái chấp ngã là chức năng của Mạt na, Mạt na nhìn vào A lại da mà cho rằng A lại da là ngã, là ta. Vậy, “ngã” được hình thành do nội dung mà A lại da chứa đựng và sự chấp ngã của Mạt na. Để tiến tới vô ngã, một người phải phá bỏ chấp trước và mặt khác không làm phong phú cái nội dung ngã của A lại da bằng cách điều phục thân, khẩu, ý trong hành động, đồng thời tạo thêm và phát triển các chủng tử thiện, hạn chế sự hiện hành của các chủng tử ác. Để đạt mục tiêu ấy thiền định là phương pháp tốt nhất. Thiền định giúp ta buông bỏ phân biệt chấp trước, phát triển trí tuệ để nhìn rõ nguyên nhân của khổ đau.
Giáo dục giúp con người phát triển trí tuệ để thấy rõ ngũ uẩn là không (có tự thể) là vô ngã. Phật Giáo đề cao 6 Ba la mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Bốn đức của Ba la mật là khổ, không, vô thường và vô ngã. Chính việc thực hành lục Ba la mật là một phương pháp rèn luyện nhân cách tuyệt vời, là phương cách trị liệu hữu hiệu nhất đối với những bệnh nhân cách (personality disease) mà các nhà phân tích nhân cách hiện đại đã phân tích và tìm cách chữa trị.
Ngoài ra, nhờ việc phân tích ngũ uẩn và áp dụng giáo lý duyên khởi nền giáo dục nhân cách của Phật Giáo có thể xếp loại nhân cách và phương pháp giáo dục, trị liệu cho từng nhân cách: Người có dục tham nặng thì cần tu tập quán vô thường, vô ngã, và thực hành bố thí. Người nặng sân hận thì cần thực hành từ vô lượng tâm.
III. Kết luận:
Như vậy, cái nhân cách tốt đẹp nhất là cái nhân cách vô ngã. Nhân cách càng gần với tinh thần vô ngã thì càng tạo hạnh phúc cho cá nhân mang nhân cách ấy và góp phần tạo hạnh phúc cho những người chung quanh.
Mọi khổ đau đều là những thể hiện của tham, sân và si. Ngã chấp là động cơ vận hành của tam độc này: càng sống theo tinh thần vô ngã thì càng được giải, tức là càng giảm thiểu khổ đau. Sự thật này là kinh nghiệm sống hằng ngày mà người ta lại không để ý đến. Giáo dục phải nhắc nhở cho người ta, phải khuyến khích người ta thực hiện tinh thần vô ngã. Như thế, nói một cách khác, giáo dục, nhất là giáo dục nhân cách, là phải xem sự hướng đến một đời sống vô ngã là mục đích tối hậu.
Những trường hợp bất thường về nhân cách mà các nhà chuyên môn gọi là bệnh nhân cách chính là bệnh chấp ngã, chấp ngã trong các lĩnh vực khác nhau về ý nghĩ, về tâm lý, về ứng xử, hành động. Giáo dục Phật Giáo có thể điều chỉnh, chữa trị những trường hợp bất thường ấy. Con đường giáo dục theo tinh thần vô ngã chính là con đường của giáo dục Phật Giáo vậy.

XUÂN NHẬT TỨC SỰ (^)
Giáo sư Lê Mạnh Thát
Xuân nhật tức sự là một bài thơ hay, được các thi tuyển xưa chép vào phần thơ của Huyền Quang (1), do đó được nhiều người dẫn và bình luận (2). Có điều trong thơ văn chữ Hán của nước ta, đặc biệt trong thơ văn chữ Hán của các nhà sư Việt Nam có lẫn rất nhiều bài thơ của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong số 40 bài thơ do Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến Vân Tiểu Lục và nói là của Thiền sư Hương Hải, thì có đến 32 bài là của tác giả Trung Quốc đời Tống (3) mà ta có thể tìm lại trong các sách Trung Quốc hiện còn. Trường hợp Chân Nguyên cũng thế (4). Thậm chí những tác giả sống gần thời với ta như Viên Thành (1879-1928) cũng có những bài thơ chữ Hán của Trung Quốc chép trong thi tập của mình, mà những người sau do thiếu cẩn thận đã cho là của chính Viên Thành (5). Vậy Xuân nhật tức sự có ở trong trường hợp nhầm lẫn, gán ghép đó không?
Những ai có dịp đọc các bộ chính sử của Thiền Tông Trung Quốc, thì biết ngay Xuân nhật tức sự là một bài thơ của Thiền sư Ảo Đường Trung Nhân (?-1203). Người đầu tiên ghi lại tiểu sử và bài thơ nói trên của Trung Nhân không phải ai khác mà là học trò của ông, tức Thiền sư Lôi Am Chính Thọ (1145-1208), tác giả bộ Gia Thái phổ đăng lục, là bộ lịch sử Thiền Tông viết trong khoảng Gia Thái đời Tống Ninh Tông (1201-1204). Chính trong Gia Thái phổ đăng lục 15, tờ 117c 14-d12 mà cuộc đời và tác phẩm của Trung Nhân được ghi lại như sau:
“Thiền sư Ảo Đường Trung Nhân chùa Linh Phong ở Nhạn Sơn, Ôn Châu là người Lạc Dương. Thuở nhỏ xuất gia ở viện Phụng Tiên tại Đông Kinh. Trong khoảng đầu năm Tuyên Hòa (1119-1125), được cấp điệp ở viện Khánh Cơ, bèn xuống tóc thọ giới Cụ túc, sau đó lui tới Sở dịch kinh Tam tạng, nghiên cứu khắp hết kinh luận, nhưng đặc biệt đối với Thiền Tông thì chưa tin. Đến khi Viên Ngộ (Khắc Cần, 1063-1135) được chiếu vua mời tới ở chùa Thiên Ninh, sáng sớm bèn yết kiến. Ngộ khi ấy mới vì chúng nhập thất. Sư vừa thấy liền kính phục, hớn hở bước tới mặt. Ngộ nói: “Dựa kinh giải nghĩa ba đời oan Phật, rời kinh một chữ tức giống thuyết ma, nói mau!”. Sư đang cách trả lời thì Ngộ vung tay đánh vào miệng, nhân thế làm gãy một răng. Sư tức thì đại ngộ. Do thế, sư ở lại Thiên Ninh. Từ đó, thầy trò tương hợp, hỏi đáp không ngừng. Từ khi (nhà Tống) vượt về phương Nam, trong năm đầu Long Hưng (1163-1164) bèn lúc đầu mở trường giảng ở Đại giác, rồi dời chùa về Trung Thiên Trúc, rồi lại dời tới chùa Linh Phong. Sư thượng đường nói:
            “Chín chục tia Xuân quá nửa đêm,
            Vun hoa thiên khí chính dung hòa.
            Hải đường cành ấy oanh ríu rít,
            Đạo với dòng đời thấy được ha?”
Nhưng tuy thế, khi đã rõ thanh rõ sắc thì một câu hỏi, làm sao nói ra?
            “Đàm vàng ngựa hí đất thơm cỏ
            Lầu ngọc người say trời hạnh hoa”
Sư thượng đường nêu chuyện con chó không có tính Phật, nói:
            Đôi tám giai nhân thêu chậm dân
            Tử kinh hoa rộ hót hoàng anh
            Đáng yêu vô hạn thương xuân ý
            Dồn ở dừng kim chẳng nói năng.
Nguyên văn chữ Hán:
            Nhị bát giai nhân thích tú trì,
            Tứ kinh hoa hạ chuyển hoàng ly.
            Khả lân vô hạn thương Xuân ý,
            Tận tại đình châm bất ngữ thi.
Ngày 8 tháng 4 năm Thuần Hy, Giáp Ngọ (1174), vua Hiển Tông xuống chiếu mời vào, ban cho chỗ ngồi để thuyết pháp. Vua nêu chuyện không cùng với muôn pháp làm bè bạn, để xin sư niêm đề. Sư niêm xong làm bài tụng:
            Quả cân lấy khởi làm đầu,
            Thôi đừng nói dài lâu.
            Lưng đeo tiền mười vạn,
            Cỡi hạc lên Dương Châu.
Trong năm Quí Hợi (1203), sư thượng đường từ biệt mọi người mà mất.
Tiểu sử trên, sau này Ngũ đăng hội nguyên 19, tờ 383a9-b6 do Đại Xuyên Phổ Tế viết trong khoảng 1228-1233 và Tục truyền đăng lục 28, tờ 657b4-22 do Viên Cực Cư Đình (?-1404) hoàn thành từ khoảng 1396 trở đi, đã sao y nguyên văn, còn Thiền tông chính mạch 19, tờ 31a 13-14 của Như Cẩn viết xong năm 1489 thì lược bớt nhưng còn giữ lại bài thơ “Nhị bát giai nhân ...”, trong khi Nam Tống Nguyên Minh Thiền lâm Tăng bảo truyện 4, tờ 331a3-c2 của hai thầy trò Tự Dung và Tĩnh Lôi viết xong vào năm 1664 thì không còn thấy chép bài thơ ấy nữa.
Thế là rõ ràng Bài thơ với nhan đề đặt thêm Xuân nhất tức sự không phải của Huyền Quang, một nhà sư Việt Nam sống giữa những năm 1254-1334, mà là của Ảo Đường Trung Nhân (-1203), một Thiền sư đời Tống. Nó đã được chép vào những sách vở, chủ yếu là Gia Thái phổ đăng lụcNgũ đăng hội nguyên, ra đời trước khi Huyền Quang có mặt trên cõi thế.
Cũng cần nói thêm, Phổ Hội có chép một bài thơ xuất nhập với bài thơ của Trung Nhân trong Thiền tông tụng cố liên châu thông tập và ghi là của Nam Tẩu Sực. Bài thơ đó như sau:
            Nhật noãn giai nhân thích tú trì,
            Tử kinh chi thượng chuyển hoàng ly.
            Dục tri vô hạn thương Xuân ý,
            Tận tại đình châm bất ngữ thi.
Thiền tông tụng cố liên châu thông tập là một tác phẩm do Phổ Hội chỉnh lý và bổ sung. Thiền tông tụng cố liên châu tập của Pháp Ứng hoàn thành giữa những năm 1295-1418 và được khắc bản vào năm 1318. Bài thơ nói trên của Nam Tẩu Sực cho thấy, ngay ở Trung Quốc thời Huyền Quang đã có một dị bản của bài thơ Trung Nhân, chứng tỏ nó lưu hành khá rộng rãi.
Chúng tôi có ý giám định về mặt văn bản học toàn bộ thơ văn Huyền Quang hiện biết đã rồi mới công bố kết quả cho đầy đủ. Song vì bạn Nguyễn Phương Chi đã có nhã ý nhắc đến chúng tôi khi đề cập tới bài thơ Trung Nhân nói trên (6) nên chúng tôi công bố trước tư liệu này, trong khi tiến hành một công trình nghiên cứu nghiêm túc hơn về toàn bộ thơ văn được biết dưới tên Huyền Quang về mặt văn bản học.
Chú thích:
1. Chẳng hạn Việt âm thi tập, soạn xong 1459, bản in hiện còn 1729.
2. Đặng Thai Mai: Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học trong Thơ văn Lý-Trần I. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977, tr. 44. Đinh Gia Khánh và nnk. Văn học Việt Nam thế kỷ XVII, nửa đầu thế kỷ XVIII, NXB Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1978, tr. 67, Tổng tập văn học Việt Nam I, NXB Khoa học xã hội, 1980, tr. 104.
3. Xem Lê Mạnh Thát: Thơ văn Thiên sư Minh Châu Hương Hải, Viện Phật học Vạn Hạnh, TP. HCM, 1980 (bản đánh máy). Đấy là chưa kể những câu ngữ lục và một số bài thơ dôi ra trong Hương Hải Thiền sư ngữ lục, bản in năm Cảnh Hưng thứ 8 (1747).
4. Xem Lê Mạnh Thát: Chân Nguyên Thiền sư toàn tập III, Viện Phật học Vạn Hạnh, TP. HCM, 1979 (bản đánh máy). Thí dụ bài:
            Hữu thuyết giai thành báng,
            Vô ngôn diệc bất dung
            Vị quân thông nhất tuyến,
            Nhật xuất lĩnh đầu hồng
Trong Ngô đạo nhân duyên và Kiến tinh thành Phật của Chân Nguyên, thực sự là một bài thơ của dã Phụ đạo xuyên đời Tống.
5. Chẳn hạn bà Sơn cư ngẫu tác trong Lược ước tùng sao, tờ 54b.
6. Nguyễn Phương Chi: Huyền Quang nhà sư thi sĩ Tạp chí văn học số 3 năm 1982, tr. 79.


Hòa thượng Thích Trí Quảng
Tôi đã tham gia vào công tác giảng dạy tại Học Viện Phật Việt Nam từ khóa I cho đến nay là khóa IV sắp sửa tốt nghiệp. Nhớ lại thời gian tôi bắt đầu dạy thì lúc ấy trường mới được thành lập với tên là Trường Cao Cấp Phật học, nay được đổi tên là Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Đặc biệt lớp học của khóa IV (1997-2001), cả Tăng Ni đều học Kinh Đại Bảo Tích với tôi, vì bận nhiều Phật sự, nên thời gian tôi giảng dạy cho Tăng Ni khóa học này rất ít, không được bao nhiêu. Tuy nhiên, tôi nhận thấy Tăng Ni đều tiếp thu tốt ý nghĩa tinh ba của bộ Kinh mà tôi đã hết lòng truyền trao, và kết quả là anh em đã làm bài thi cuối năm đều đạt yêu cầu.
Theo tôi, mặc dù chúng ta chưa hài lòng lắm, nhưng Tăng Ni sinh của các khóa học trước, cũng học hành có kết quả tốt và sau đó một số anh em cũng đã thành tựu được những Phật sự đáng kể. Có nhiều người bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ ở nước ngoài như Nhật Bản, Ấn Độ v.v...
Riêng khóa IV, có nhiều triển vọng hơn. Thật vậy, tôi vui mừng khi thấy Tăng Ni sinh khóa này học hành đạt được trình độ khả quan hơn và đồng đều hơn. Điều đó khiến chúng ta tin tưởng rằng chắc chắn trong tương lai Phật Giáo Việt Nam sẽ có được nhiều tu sĩ tài giỏi làm rường cột cho sự tồn tại và phát triển đạo pháp của nước nhà.
Cầu nguyện chư Phật gia hộ cho các Tăng Ni sinh thành tựu viên mãn trên bước đường tự giác, giác tha, xứng đáng với vai trò thừa kế các bậc tôn đức, làm rạng danh Phật Giáo Việt Nam.
Cầu nguyện cho Học Viện Phật Giáo Việt Nam luôn luôn đào tạo được những tu sĩ tài đức gánh vác được Phật sự thành công, đưa Phật Giáo nước nhà tiến lên đỉnh cao trong thiên niên kỷ mới.

CS. Tống Hồ Cầm
Phó Viện trưởng Học Viện
 Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Thế là bốn năm học khóa IV Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon của quý vị Tăng Ni sinh viên đã đến kỳ hoàn mãn.
Hội đồng Điều hành Học Viện, trên hết là Hòa thượng Thích Minh Châu kính mến, cộng sự cùng với quý chức vị thành viên của Hội đồng, quý thân giáo sư, quý nhân sự văn phòng, quý Ban Bảo Trợ của Học Viện, đều đã hoàn thành trách nhiệm theo thiên chức của mỗi người gắn bó vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo Tăng Ni tài đức xuất phát từ định hướng hệ thống tổ chức của Phật Giáo Việt Nam chúng ta.
Tới đây, ngày 15 tháng 6 năm 2001 cử hành lễ tốt nghiệp chính thức cho quý sinh viên Tăng Ni chúng ta và được công nhận đây là nấc thang học vị đại học đầu tiên, vào ngày mãn khóa.
Với bằng cấp Cử nhân Phật học, quý học Tăng, học Ni các khóa trước đây có điều kiện cầu học thêm, được giúp đỡ hội đủ nhiều mặt để du học, đã lần lượt tốt nghiệp với các học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ Phật học. Điều này chứng tỏ sự tự quyết tâm toàn tâm toàn ý thật đáng biểu dương, ca ngợi.
Thực ra với bất cứ học vị nào, nếu có thời gian vả điều kiện học tiếp, học tới nữa, tất nhiên chóng chày cũng đều sẽ thành đạt, nhưng sau đó phải có cống hiến phục vụ hiệu quả thì chức vị mới trở thành hiện thực, đồng thời danh vị và hiện thân thực học thực tu cao quý đó, cũng tất nhiên là điều thiết tha kỳ vọng kế thừa, tiếp nối vào tổ chức Phật Giáo chúng ta.
Những năm tháng trôi qua, với đạo tình và có duyên lành thân gần trao đổi bổ ích cho nhau với quý Tăng Ni sinh của khóa IV này cũng như các khóa trước, chúng tôi chí thành tin tưởng quý vị lấy trí tuệ làm sự nghiệp, nối chí Thầy Tổ, sáng giá là sứ giả Như Lai, sẽ dày công phát huy thêm những trang sử huy hoàng cho Đạo pháp, cho dân tộc và vinh quang đất nước chúng ta.


Gs. Trần Tuấn Mẫn
Suốt 20 thế kỷ từ khi du nhập vào Việt Nam, Phật Giáo đã bắt rễ thâm sâu vào mảnh đất này, đóng một vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước trải qua những thăng trầm trong lịch sử của dân tộc.
Sau 1,000 năm bị người Trung Quốc đô hộ, một thời kỳ độc lập bắt đầu với cuộc chiến thắng vẻ vang quân xâm lược Nam Hán vào năm 939. Đây là một thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam. Trong hơn 400 năm dưới các triều đại Đinh (968-980), Lê (980-1009), Lý (1010-1225) và Trần (1225-1400), các nhà nước đều ủng hộ Phật Giáo như một quốc giáo và được Phật Giáo tích cực ủng hộ. Do đó mà đất nước trở nên hùng cường, thịnh vượng và nhân dân hiền thiện, hạnh phúc, với những thành tựu tốt đẹp nhất về quân sự và văn hóa trong lịch sử phong kiến ở Việt Nam. Nhiều vị Tăng tài đức được mời làm Quốc sư. Vua, đại thần, tướng lãnh ... đều là những tín đồ và học giả Phật Giáo. Nhiều người sau khi hoàn thành việc nước, đã từ bỏ gia đình, tài sản, để tu hành tại một ngôi chùa hẻo lánh. Vua Lý Thái Tổ, người sáng lập Triều Lý vốn là một Sa di, kế vị của ông là Lý Thánh Tông, cũng là một nhà Phật học. Vua Trần Thái Tông là một Thiền sư, tác giả của nhiều bộ sách Phật học giá trị, sau khi lãnh đạo nhân dân chiến thắng lẫy lừng các đạo quân Mông Cổ, đã nhường ngôi cho con là Trần Thánh Tông, từ bỏ ngai vàng mà đến núi Yên Tử tu tập và sáng lập Thiền phái đầu tiên tại Việt Nam, tức Thiền phái Trúc Lâm.
Những dấu tích văn hóa và tư tưởng Phật Giáo Việt Nam không chỉ thể hiện trong các tác phẩm do các tu sĩ và học giả Phật học biên soạn tạo thành một nền văn học phong phú mà còn thể hiện trong các sinh hoạt hàng ngày, nhất là trong các công trình kiến trúc, điêu khắc, trang trí. Các nghệ nhân và các nhà kiến trúc Phật tử đã ghi khắc niềm tin của mình trong xây dựng lăng mộ, chùa chiền, cung điện, trong việc chạm khắc bia tượng và trang hoàng nhà cửa. Phật Giáo thâm nhập vào quần chúng nhân dân Việt Nam qua các chuyện thần kỳ, ca dao tục ngữ, ca trù dân gian ... truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhiều đại tác phẩm trong văn học Việt Nam do các Nho gia viết như Truyện Kiều (Nguyễn Du), Cung Oán Ngâm Khúc, (Nguyễn Gia Thiều), Bạch Vân Thi (Nguyễn Bỉnh Khiêm) v.v... cũng chứa đựng tư tưởng Phật Giáo. Có thể nói, văn hóa Việt Nam thấm nhuần màu sắc Phật Giáo.
II. Xã hội Việt Nam ngày nay và chức năng của tôn giáo:
Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1975, chính quyền và nhân dân Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn trong một giai đoạn chuyển tiếp 15 năm do bởi những hậu quả của cuộc chiến tranh lâu dài vì độc lập tự do và thống nhất đất nước và do những khác biệt giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam về cơ cấu chính trị, xã hội, kinh tế và cả về lối sinh hoạt, suy nghĩ. Nhưng rồi tình trạng này dần dần trở nên tốt đẹp hơn và đời sống xã hội ngày càng được ổn định.
Chính sách mở cửa của nhà nước Việt Nam rõ ràng đã giúp đất nước tiến tới một bước ngoặc trong sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, khi chuyển dần sang nền kinh tế thị trường, trong xã hội đã xuất hiện một số điều đáng lưu ý, chẳng hạn đó là sự xói mòn nền tảng đạo đức của xã hội. Nhiều người, nhất là giới trẻ, đã phải đối mặt với những nền văn hóa ngoại lai, những lối sống mới và cuối cùng chấp nhận chúng mà không hề đắn đo cân nhắc. Một tảng lớp xã hội mới gồm những người giàu, sản phẩm của kinh tế thị trường, của tham nhũng, bất chính đã khởi sự hình thành. Trong khi đó, dù có những thành tựu đáng kể về phát triển kinh tế, nghèo khổ, thậm chí đói khát và lạc hậu vẫn tồn tại ở một số vùng xa ...
Hiện nay một số người bảo rằng do chính sách mở cửa, xã hội Việt Nam bị ảnh hưởng bởi hệ thống kinh tế tư bản và những xu hướng mới về chính trị, xã hội văn hóa, điều này đòi hỏi một sự thay đổi chế độ chính trị. Tôi không phải là một nhà chính trị nhưng tôi nghĩ rằng Trung Quốc đã và đang được những kết quả rất tốt đẹp nhờ chính sách mở cửa từ hai thập niên vừa qua mà chẳng cần có một thay đổi chế độ chính trị nào cả. Theo tôi, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện cho được một sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển đạo đức cho xã hội Việt Nam ngày nay.
Chính quyền không ngừng kêu gọi nhân dân gìn giữ đạo đức, văn hóa truyền thống và tôn trọng tinh thần tuân thủ pháp luật, nhưng số tội phạm vẫn gia tăng liên tục, gây nhiều rối ren cho xã hội.
Trước tình hình suy thoái đạo đức này, tôn giáo phải tham gia chữa trị căn bệnh của xã hội bằng cách thiết lập một trật tự đạo đức. Cả chính quyền lẫn tôn giáo đều hứa hẹn hạnh phúc cho nhân dân. Tuy nhiên, lời hứa về hạnh phúc của tôn giáo thì hấp dẫn hơn vì người vẫn bảo rằng hạnh phúc do tu tập thì tuyệt đối và vĩnh cữu. Chỉ có tôn giáo mới có thể thực sự khắc sâu vào tâm thức người ta một niềm tin sâu sắc, mãnh liệt, một tin tưởng vào sự tuyệt đối, vào năng lực tối thượng. Niềm tin tưởng này hành động, phán đoán và chẳng dính dáng gì đến luật pháp và sự thưởng phạt của đời thường.
Tôn giáo và đạo đức sẽ có khả năng đương đầu với sức mạnh kinh tế và chủ nghĩa tư bản hay không? Câu hỏi này đã được nêu ra ở nhiều nước đã phát triển hay đang phát triển, và câu trả lời là “Vâng, sẽ có khả năng”.
Điều quan trọng là phải có một sự hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền và tôn giáo. Chính quyền phải ủng hộ tôn giáo trong những hoạt động vì hạnh phúc của số đông và vì sự phát triển của tôn giáo.
III. Chức năng của Phật Giáo tại Việt Nam ngày nay:
Chấm dứt chiến tranh vào năm 1975, mở ra một kỷ nguyên mới của nước CHXHCNVN. Trong bối cảnh chính trị này, một cuộc vận động được phát khởi nhằm thống nhất các tổ chức và hệ phái Phật Giáo ở hai miền Nam và Bắc Việt Nam. Vào ngày 06 tháng 11 năm 1981, một Đại hội được tổ chức tại Hà Nội với sự tham dự của 165 đại biểu, soạn thảo một bản hiến chương, theo đó Giáo hội Phật Giáo Việt Nam là tổ chức duy nhất đại diện cho toàn thể Tăng Ni và Phật tử tại Việt Nam. Đại hội cũng đưa ra một chương trình hành động cho Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, gồm các điểm sau:
1. Thực hiện sự hợp tác hòa hợp dân tộc giữa các hệ phái Phật Giáo, giữa Tăng Ni Phật tử;
2. Truyền bá Chánh pháp và nêu rõ tính tích cực của Phật Giáo;
3. Thiết lập một hệ thống giáo dục cho Tăng Ni và một lối sống đúng đắn cho các Phật tử;
4. Tăng cường truyền thống yêu nước của Phật Giáo Việt Nam, mối liên hệ gắn bó của Phật Giáo với nhân dân Việt Nam và sự đóng góp tích cực của Phật Giáo vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
5. Ổn định kinh tế nhà chùa để cải thiện điều kiện sinh hoạt của Tăng ni và đóng góp tạo phồn vinh cho đất nước;
6. Tăng cường mối liên hệ hữu nghị với Phật tử và các tổ chức Phật Giáo trên thế giới, tham gia xây dựng hòa bình và hạnh phúc cho nhân loại.
Thật khó có thể miêu tả hết những thành tựu nhiều mặt của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam suốt gần 20 năm qua kể từ ngày Giáo hội được thành lập. Ở đây tôi chỉ có thể nêu ra một số nét. Hiện nay, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam lãnh đạo và tổ chức tất cả các hoạt động Phật sự của khoảng 30,000 Tăng Ni trong 15,000 tự viện và 40 triệu Phật tử trong toàn nước. Bên cạnh Giáo hội Trung ương, có 44 tỉnh, thành hội Phật Giáo. Hội đồng Trị sự Giáo hội Trung ương gồm 9 Ban Ngành Viện chịu trách nhiệm về những mặt hoạt động khác nhau: đó là các ban ngành: Tăng sự, Giáo dục Tăng Ni, Hoằng Pháp, Văn hóa, Nghi lễ, Hướng dẫn Phật tử, Kinh tế nhà chùa, Từ thiện xã hội, Phật Giáo quốc tế và Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam. Mỗi ban ngành đều có nhân sự và trụ sở tại mỗi tỉnh thành. Ba Học Viện Phật Giáo Việt Nam và 26 trường Cơ bản Phật học cùng nhiều khóa chuyên môn ngắn hạn hay dài hạn, đang đảm nhiệm giáo dục và đào tạo Tăng Ni. Hơn 100 Tăng Ni sinh tốt nghiệp đang du học tại các đại học nổi tiếng ở nước ngoài. Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam đã tập hợp, dịch thuật và xuất bản 27 tập kinh Pàli, và Hán ngữ nhằm hình thành một bộ Đại Tạng Kinh Việt Nam cho Tăng Ni, Phật tử, và các nhà Phật học Việt Nam. Trên toàn nước, Giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã xây dựng 25 bệnh viện miễn phí, 655 phòng phát thuốc, 196 lớp học tình thương cho trẻ em đường phố, 116 nhà từ thiện. Số sách báo Phật Giáo đủ loại cứ tăng dần mỗi năm ...
Nói chung, Phật Giáo Việt Nam đã đạt được những thành quả quan trọng trong việc tham gia phát triển đất nước. Bây giờ tôi xin trình bày vắn tắt một số đặc trưng của Đạo đức học Phật Giáo và một số nổ lực của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam nhằm phổ biến những đặc trưng ấy trong quần chúng.
Theo Đạo đức học Phật Giáo, ba gốc rễ tệ hại gây đau khổ cho cuộc đời là tham, sân, và si. Bạo lực, chiến tranh, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng và mọi xấu ác đều là những biểu hiện của ba căn bản xấu xa ấy. Phật Giáo giảng dạy và dẫn dắt người ta đến sự tiêu trừ ba thứ độc dược ấy. Học thuyết về Nghiệp-Tái sinh-Nhân quả ... khẳng định rằng con người phải chịu trách nhiệm về những hành động của chính mình. Học thuyết Vô ngã khích lệ người ta quên mình và hành động vì lợi ích của số đông.
Phật Giáo đặt ra cho các tín đồ 5 giới để sống đời đạo đức. Đó là: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói xấu và không dùng chất gây say. Nếu mọi người, Phật tử hay không phải Phật tử, tuân theo năm giới này thì đạo đức cá nhân sẽ toàn thiện và cuộc đời sẽ trở nên an lành hạnh phúc.
Các Phật tử đến chùa để lẽ Phật, hành thiền hay tham dự các khóa giáo lý. Thói quen này làm phong phú đời sống tâm linh của họ và tạo sự tĩnh lặng, sáng suốt cho tâm họ. Ban Hướng dẫn Phật tử là một bộ phận nhằm truyền bá đạo đức Phật Giáo. Ban Hướng dẫn đã thành lập nhiều đoàn Phật tử gồm thanh niên, người lớn tuổi thâm nhập quần chúng làm công tác xã hội và kêu gọi mỗi người giữ gìn nếp sống đạo đức. “Gia đình Phật tử” là bộ phận nhằm hướng dẫn và huấn luyện các thanh thiếu niên Phật tử. Đội ngũ này gồm 50,000 đoàn viên và 6,000 huynh trưởng được chia thành từng nhóm gia đình sinh hoạt tại nhiều chùa ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Ban Hoằng pháp tuyển chọn các Tăng Ni nhiều khả năng để huấn luyện qua các khóa dài hạn và ngắn hạn được tổ chức tại nhiều tỉnh thành. Đội ngũ Giảng sư được chuyên môn hóa này đảm nhiệm công việc giảng dạy Phật pháp, truyền bá đạo đức Phật Giáo và nêu ra cho mọi người một lối sống tốt đẹp hơn.
IV. Kết luận:
Phật Giáo là một tôn giáo của từ bi và trí tuệ. Nguyên tắc căn bản của Đạo đức học Phật Giáo là mọi người cần phát triển lòng từ bi. Về mặt đạo đức, trí tuệ thật sự chính là sự hiểu biết thực tiễn thể hiện thái độ và hành vi trong đời sống xã hội. Phật Giáo luôn có thái độ cởi mở đối với các tôn giáo và các hệ ý thức. Phật Giáo chấp nhận bất cứ hệ thống đạo đức, triết học hay chính trị nào miễn là hệ thống ấy có thể giúp người ta đạt hạnh phúc và hoàn thành cứu cánh.
Trong tinh thần hợp tác, đoàn kết và hòa hợp dân tộc, tôi tin chắc rằng Phật Giáo cũng như các tôn giáo khác tại Việt Nam có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giúp nhà nước và nhân dân Việt Nam ổn định xã hội và phát triển đất nước.


                                    Thượng tọa Thích Thiện Nhơn
Tính chất giáo dục, mục tiêu hiệu năng giáo dục đạo đức-nhân bản, đặt cơ sở giáo dục trên con người, còn gọi là giáo dục tự thân và giáo dục tha nhân, tức là con người xã hội. Do đó, trong khế kinh đức Phật dạy: “Con người là tối thắng, vì có hai khả năng, một là chứng được đạo quả Bồ đề, hai là làm cho chánh báo và y báo trang nghiêm” tức là làm cho tư tưởng, con người và hoàn cảnh xã hội chung quanh tốt đẹp. (Kinh Anh Lạc).
Qua đó, có thể nói, Giới-Định-Tuệ là một trong những phạm trù giáo dục nổi bật, làm hoàn thiện con người tự thân và con người xã hội.
1. Giới-Định-Tuệ là một hệ thống giáo dục đạo đức nhân bản đoạn ác - tu thiện:
Từ nhận thức khái quát trên, ý nghĩa giáo dục của giới, là đoạn trừ các điều ác, thực hiện các điều thiện, dựa trên cơ sở con người và 3 nghiệp - thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Từ 5 giới của người tại gia, 10 giới của người xuất gia v.v... và triển khai thành 10 hạnh lành - Không sát sanh, không trộm cướp, không dâm dục, không nói dối, không nói ly gián, không nói thêm bớt, không nói lời ác độc, không tham, không sân, và không tà kiến si mê.
Trên cơ sở tự tánh từ bi, thực hành hạnh từ bỏ sát sanh, nhằm tôn trọng tính bình đẳng, phát triển tâm từ bi và đoạn trừ nhân quả nghiệp báo trả quay trong vòng luân hồi sanh tử. Như khế kinh nói: “Hận thù diệt hận thù. Đời này không thể được. Từ bi diệt hận thù. Là Định luật thiên thu”.(PC-5). Từ đó, phát triển tình người, tình thương yêu đồng loại chúng sinh, xây dựng và củng cố hòa bình cho nhân loại trên hành tinh này. Như cổ đức nói: “Tất cả chúng sinh không nghiệp sát, lo gì thế giới đầy đao binh, mọi nhà, mọi chốn đều tu thiện. Lo gì thiên hạ chẳng thái bình”.
Qua tâm xả, thực hành hạnh từ bỏ trộm cướp phát triển tâm bố thí, thực hành hạnh bố thí, tôn trọng tài sản của người và xã hội, kiến tạo một xã hội công bằng, văn minh và giàu mạnh. Đoạn trừ nhân quả trả vay lẫn nhau. Như cổ đức dạy: “Khoét vách đào tường chi đã lâu. Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu. Của người dù có đời này được. Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu”. (Thiền sư Trần Thái Tông).
Với tâm thanh tịnh giải thoát, tu hạnh ly dục, ly tà hạnh và dâm dục, xây dựng hạnh phúc gia đình, tôn trọng nhân phẩm con người, thành tựu phạm hạnh, và cuối cùng giải thoát sinh tử luân hồi, như cổ đức dạy: “Đường sinh tử tu hành đã đoạn. Gốc ái ân vi tế không còn. Đường giải thoát lâng lâng nhẹ bước. Vượt trần gian siêu thoát ba đường”.
Y cứ chân như thật tánh, thực hành hạnh không nói dối nhằm tôn trọng sự thật, xây dựng niềm tin cho nhau trong các quan hệ song phương, từ gia đình đến xã hội và toàn cầu, từ người lãnh đạo đến người thừa hành, đồng thời tạo cơ sở chính xác cho niềm tin tuyệt đối. Như cổ đức nói: “Một lời nói chân thật thì được muôn người tin dùng, một lời nói không chân thật, thì muôn việc không thành tựu”. (Nhất ngôn trúng, vạn nhân dụng - Nhất ngôn bất trúng, vạn sự bất thành).
Bằng cơ sở tự tánh hòa hiệp, thực hành hạnh không nói ly gián, nhằm tạo sự đoàn kết, hòa hợp các phần tử với nhau, trong gia đình, xã hội, và thế giới, tạo thành một khối thực thể bất khả phân, một sức mạnh tổng hợp, dung thông không gì lay chuyển nổi. “Một cây làm chẳng nên non - Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Bằng tự tánh bình đẳng, thực hành hạnh không nói thêm bớt, nhằm tôn trọng tính chính xác, không tăng giảm của các pháp bình đẳng, tạo cơ sở chính xác cho công tác thông tin đại chúng, báo, đài, và thông tấn xã v.v... Như người xưa nói: “Đừng ai vẽ rắn thêm chân, chuyện không nói có, chuyện gần nói xa”.
Qua cơ sở tâm bi, vô sân, nhẫn nhục, thực hành hạnh không nói lời ác độc, mà nói lời hòa nhã để đoạn trừ tâm ác, tâm sân, tâm bất nhân, thanh tịnh khẩu nghiệp, tạo sự hoan hỷ cảm thông, dung thứ, từ ái với nhau, qua ý nghĩ, việc làm, trong giấc ngủ, trong các môi trường giao tế hàng ngày. Như ca dao Việt Nam có câu: “Chim khôn kêu tiếng ráng rang. Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe. Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”.
Trên ý nghĩa tâm vô tham, đoạn trừ tâm tham, về tài, sắc, danh, thực, thủy - sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, hướng đến ly dục, ly tham, thiểu dục tri túc, phạm hạnh thanh bạch, cuộc sống đơn giản, giải thoát, bảo vệ môi sinh, môi trường thiên nhiên của con người và nhân loại. Như khế kinh nói: “Không mong cầu quốc độ, của cải và vợ con. Không mong mình thành tựu. Với việc làm phi pháp. Người ấy thật trì giới. Với trí tuệ thanh tịnh”. (PC-84).
Bằng tâm vô sân, đoạn trừ tâm sân, phát triển tâm từ bi, nhẫn nhục, hạn chế, đoạn trừ sự tổn hại chính mình và tha nhân, cũng như xã hội và thế giới, làm lợi lạc chúng sinh, đem lại an vui, hòa bình, hạnh phúc cho mọi người. Như cổ đức dạy: “Lửa lòng đã tắt từ lâu, tự tâm thanh tịnh một bầu thanh hương. Mưa từ, nước pháp, nhành dương, chúng sinh lợi lạc bốn phương đượm nhuần”.
Lấy trí tuệ làm thể, đoạn trừ tà kiến si mê, phát triển tâm sáng suốt, tức năng lực trí tuệ, thấy đúng như thật về thân tâm và hoàn cảnh. Thấy rõ và tin lý nhân quả cũng như chân lý tuyệt đối. Như khế kinh nói: “Phi chơn hiểu là phi chơn. Chơn thật hiểu là chơn thật. Người hiểu đúng như thế, mau đạt được lý chơn”. (PC-13).
Như vậy, giáo dục đạo đức ngang qua Giới, chính là đoạn trừ 10 pháp ác, thực hành 10 pháp thiện, hay nói dễ hiểu hơn khi đoạn trừ 10 điều ác, chính là thành tựu 10 điều thiện và thân khẩu ý thanh tịnh, thành tựu đoạn đức, trí đức và ân đức, Bồ đề xuất hiện. Như cổ đức dạy: “Thân khẩu ý thanh tịnh gọi là Phật ra đời”. Hoàn thành nhân cách tuyệt đối của con người.
2. Giới-Định-Tuệ là giáo dục tâm lý, nhân bản - trong sạch hóa tự tâm - đưa đến trí tuệ:
Dẫn khởi từ thân khẩu thanh tịnh, tức ly dục, ly bất thiện pháp, thành tựu giới. Do đó, giáo dục về định là chế ngự và chặn đứng vọng niệm, đoạn trừ phiền não. Có thể nói, trước nhất nhất điều hòa hơi thở, tâm ý chuyên nhất. Như khế kinh nói: “Mỗi khi tọa thiền đếm hơi thở. Tâm ý chánh định tâm không động. Dù đất chấn động tâm không động. Ấy là Thiền độ nên tu tập”. (Tăng 1).
Hoặc ngồi một nơi thanh vắng, tư duy theo dõi quán sát tự tâm, đoạn trừ phiền não - thành tựu chánh định luôn luôn làm chủ tự tâm, làm chủ tự thân và hoàn cảnh. Như đức Phật dạy: “Ngồi yên nơi thanh vắng. lặng lẽ diệt điều ác. Đạm bạc được nhất tâm. Vui ấy không ai bằng”. (PC -373- Bát nhã).
Đặc biệt, khi tiếp xúc ngũ dục, lục trần, giữ tâm định tĩnh, bất động và trong mọi động tác thường nhật luôn luôn làm chủ tự tâm, làm chủ tự thân và hoàn cảnh. Như cổ đức dạy: “Thấy sắc không can dự. Nghe thinh không nhiễm thinh. Sắc thinh không chướng ngại. Mau đến pháp vương thành”. Nhất là trông các oai nghi, động tác - đi, đứng, ngồi, nằm, không rời đương niệm.
Trên cơ sở đoạn trừ các phiền não, tức là đoạn trừ 5 triền cái, chứng 5 thiền chỉ và các trạng thái thiền. Do đoạn trừ tham dục, trạo hối, thành tựu hỷ lạc. Do đoạn trừ sân hận, tâm được định tĩnh nhất tâm, đoạn trừ thùy miên, nghi ngờ, nên thành tựu giác quán (Tầm tứ) tức Huệẹ. Như trừ phiền não, điều phục các căn, chế ngự ác pháp, bất thiện pháp, 3 nghiệp thanh tịnh, xa lìa ngũ dục, lục trần, tam độc (tham, sân, si) thanh tịnh. (Kinh Niết Bàn).
Tóm lại, mục tiêu giáo dục của Định là chặn đứng vọng tâm, không cho chạy theo ngũ dục, lục trần, nhằm trong sạch hóa tự tâm, đoạn trừ phiền não, đạt được khinh an, hỷ lạc nhất tâm, trí tuệ vô lậu phát sinh, làm cơ sở cho giải thoát, giác ngộ cứu cánh. Như cổ đức dạy: “Trăng trong in khắp muôn dòng nước. Thông cõi tha hồ bốn gió rung. Xưa mê nay tỉnh là như thế. Đạo cả sâu xa hiểu lòng”.
3. Giới-Định-Tuệ: Một hệ thống Giáo dục đạo đức quán chiếu đoạn trừ lậu hoặc - chứng quả giải thoát:
Bằng trí tuệ thân chứng, dẫn đi từ Định, là mối quan hệ nhân quả tất yếu. Liên tục nhi tiến và hợp lý. Qua đó, với trí tuệ vô lậu, trong sáng định tĩnh, quán sát thấy thân, tâm và cảnh vật là vô thường, khổ và vô ngã. Như Khế kinh nói:
            Tất cả các hành vô thường,
            Tất cả các hành khổ đau,
            Tất cả các pháp vô ngã,
            Với tuệ quán thấy thế,’          
            Sẽ đoạn hết khổ đau.
            Đường đưa đến thanh tịnh”.
(PC.227-229)
Về mặt nhân quả, thiện ác với trí tuệ thanh tịnh quán thấy và hiểu rõ vấn đề. Như cổ đức dạy:
            “Việc làm giả thật tự mình hay,
            Họa phúc do mình chờ ai hỏi.
            Quả báo cuối cùng rồi phải đến,
            Chẳng qua đến sớm hay đến chày”.
Về mặt chủ thể nhận thức, giáo dục trí tuệ, tạo cho con người có 5 sự thấy: Chánh kiến: Thấy đúng như thật sự vật khách quan - Biên kiến: Thấy một cách phổ quát - Thứ đệ kiến: Thấy một cách trình tự, quy luật diễn biến nhất định, có hệ thống và khoa học - Biệt kiến: Thấy được cái dị biệt trong cái đồng nhất - Tổng kiến: Thấy được cái đồng nhất trong cái dị biệt. (Kinh Niết Bàn).
Trên cơ sở giải thoát cứu cánh, bằng trí tuệ thanh tịnh, thấy lý Tứ đế - Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đoạn trừ hết các lậu hoặc dục lậu, vô minh lậu, thành tựu Tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, và Lậu tận minh, chứng quả giải thoát tâm giải thoát, trí giải thoát, Niết Bàn an lạc; Như khế kinh nói: những vị A la hán đã đoạn trừ hết lậu hoặc hoặc uống ăn vừa biết đủ - tự tại nơi hành xử không, Vô thường, Vô nguyện. Như chim giữa hư không tìm dấu chân không thấy. (PC-93).
Tóm lại, ý nghĩa giáo dục Phật Giáo ngang qua Giới-Định-Tuệ là nhằm cải tạo, xây dựng và huấn luyện tự thân, tự tâm tất cả những người đệ tử Phật và những nhà giáo dục đạo đức chân chính, cũng như tất cả mọi thời đại, nhằm đạt được thanh tịnh an lạc, giải thoát tự thân, tự tâm và giải thoát cứu cánh trong cuộc sống và tại thế gian này, đồng thời xây dựng một nhân sinh quan, một thế giới quan an lạc, hạnh phúc thật sự.
Bằng khả năng hành trì liên tục của con người và sức người, nổ lực tự thân và vươn lên, đoạn trừ các điều ác, thực hành các điều thiện, trong sạch hóa tự tâm, được định tĩnh làm chủ bản tâm, tự thân và hoàn cảnh, đoạn trừ lậu hoặc thành tựu trí tuệ giải thoát cứu cánh, ngang qua phương thức giáo dục Giới-Định-Tuệ.
Hơn bao giờ hết, Giới-Định-Tuệ là một hệ thống giáo dục đạo đức, tâm lý trong sáng, thực tế và toàn bích, hổ tương tác động lẫn nhau. Nếu đứng ở phạm trù giáo dục tác động cùng chiều, tức từ nhân đến quả thì Giới là nhân tố đầu tiên dẫn đến Định và từ Định phát sinh Trí Tuệ. Nếu ở phạm vi giáo dục tác động nghịch chiều, thì chính Trí Tuệ làm cho Giới và Định được thanh tịnh và thành tựu. Nếu đứng ở phạm vi giáo dục tác động đồng thời, thì trong Giới đã có đầy đủ Định và Huệ, trong Định đã có đầy đủ Giới và Huệ và trong Huệ đã có đầy đủ Giới và Định. Như Khế kinh nói: “Nơi nào có trí huệ thì nơi đó có giới luật. Nơi nào có giới luật thì nơi đó có trí huệ và cũng có nghĩa là đã có thiền định”.


Thượng Tọa Thích Phước Sơn
Trong lời phàm lệ của quyển Tứ Phần Giới Bổn Như Thích. Luật sư Hoằng Tán (1611-1685) nói: “Tam thế chư Phật câu thuyết Kinh Luật Luận tam tạng Thánh giáo. Kinh luận nhị tạng hàm thông tại gia, xuất gia, duy Luật nhất tạng Tỳ kheo độc trì, như vương bí tạng phi ngoại quan sở tư. Nhược Sa di, bạch y tiên lâm giả, vĩnh bất thọ đại giới, tội dữ ngũ nghịch đồng liệt. Vị sư giả tối nghi cẩn thận”. Dịch nghĩa: “Ba đời chư Phật đều nói ba tạng Thánh giáo Kinh luật Luận. Hai tạng Kinh Luận chung cả cho tại gia lẫn xuất gia, riêng tạng Luật chỉ dành cho Tỳ Kheo gìn giữ, như tạng bí mật của vua, hàng ngoại quan không được biết đến, Nếu Sa di, bạch y mà xem trước thì vĩnh viễn không được thọ đại giới, mắc tội ngang với tội ngũ nghịch. Phàm là người làm thầy phải hết sức cẩn thận”.
Ý kiến này có lẽ bắt nguồn từ Luật sư Châu Hoằng (1532-1612) trong quyển luật Sa di: “Bất đắc đạo thính Đại sa môn thuyết giới”. (Không được lén nghe Bậc Đại sa môn thuyết giới).
Thật ra, câu cảnh cáo của ngài Châu Hoằng là nhằm nhắc nhở Sa di không được nghe lén khi Tỳ kheo tụng giới, vì nghe lén là hành vi bất chính. Bởi lẽ, Sa di chưa đủ tư cách pháp nhân của một vị Tăng thực thụ nên không được phép tham dự vào những sinh hoạt chính yếu của Đại Tăng như vác việc yết ma, bố tát, tự tứ v.v... Nếu người chưa thọ Cụ túc mà khoác cà sa, len lỏi vào hàng ngũ Tỳ kheo, tham dự các pháp yết ma, bố tát, tự tứ, thì phạm tội tặc trú (ở trong Tăng chúng để trộm pháp), về sau không được thọ Đại giới, tức giới Tỳ kheo. Do đó, khi Tăng tiến hành tiền phương tiện (thủ tục ban đầu) thì thầy Yết ma phải hỏi Tăng chúng: “Người nào chưa thọ giới Cụ túc đã ra chưa?, và khi được xác nhận trong Tăng không có người nào chưa thọ giới Cụ túc, thì Tăng mới tiến hành các pháp yết ma. Như vậy, việc làm này rất chính đáng và đâu có dụng ý gì ngăn cấm người chưa thọ giới Cụ túc xem giới pháp của Tỳ kheo? Còn việc không cho Sa di, bạch y tham dự bố tát là có nguyên do. Lúc Phật còn tại thế, một hôm chư Tăng bố tát, có một người bạch y tham dự, sau đó, một Tỳ kheo phạm tội, người bạch y này liền hạch tội Tỳ kheo. Các Tỳ kheo thấy thế liền bạch với Phật, Phật dạy: “Từ nay trở đi không nên cho bạch y và Sa di tham dự bố tát” (Ngũ Phần Luật, Đ.22. tr.123a).
Phát xuất từ lời Phật dạy trên mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỳ kheo tụng giới, nhưng nếu Sa di vì tha thiết cầu học, có thiện chí tiến tu, thì Ngài cổ vũ: “Nhược nhạo quáng lâm, tự đương duyệt Luật tạng toàn thư”. (Nếu muốn hiểu biết rộng thì nên xem toàn bộ Luật tạng).
Và một đoạn khác trong Luật Sa di, Ngài khuyến khích: “Tuy Tỳ kheo sự, Sa di đương dự tri chi” (Tuy là việc của Tỳ kheo, nhưng Sa di cũng nên tham dự để biết). Như vậy, thiết nghĩ quan điểm của Luật sư Châu Hoằng đã quá rõ, thế nhưng vẫn có người ngộ nhận như trường hợp của ngài Hoằng Tán. Rồi từ ý kiến của ngài Hoằng Tán, có người đã luận giải, nêu ra ba lý do:
1. Nếu Sa di xem trước giới luật Tỳ kheo rồi thấy giới pháp quá nhiều, khó khăn sẽ sanh tâm thối thất, không dám thọ giới Cụ túc.
2. Nếu Sa di biết giới luật Tỳ kheo, khi họ thấy các Tỳ kheo thọ giới rồi không giữ gìn nghiêm túc, hủy phạm giới cấm, họ sẽ sanh tâm kiêu mạn, khinh rẻ các Tỳ kheo, do đó sẽ tổn phước, mất lợi ích.
3. Khi đã biết trước giới pháp thì lúc thọ giới thấy giới không còn thiêng liêng, tâm chí sẽ sút giảm nên khó đắc giới thể.
Lý luận ấy mới nghe qua có vẻ như hợp lý, nhưng xét kỹ thì hoàn toàn không ổn, vì các lẽ: Thứ nhất, chẳng lẽ những người xuất gia toàn là những kẻ bạc nhược hết hay sao mà thấy giới pháp nhiều sanh tâm thối thất?. Thứ hai, lẽ nào những người xuất gia lại quá kém phẩm chất, chuyên bới lông tìm vết, “hễ thấy Tỳ kheo phạm giới liền sanh tâm khinh rẻ?”. Thứ ba, vấn đề giữ tứ đắc giới thể là do ba việc: “Giới sư thanh tịnh, Giới đàn trang nghiêm và Giới tử chí thành”, chứ đâu phải nhờ giới tử không biết trước giới luật mà đắc giới thế?”.
Quả thật lối lập luận trên có nhiều chỗ đi xa tinh thần giáo pháp và giới luật. Ai cũng biết ngài Quy Sơn (771-833) định nghĩa người xuất gia: “Phàm là người xuất gia là mong cất bước đến chân trời cao rộng, hình dáng và tâm hồn khác với thế tục, vì mục đích làm rạng rỡ dòng thánh, trấn áp quân ma, báo đáp bốn ân và cứu vớt ba cõi”. Và các bậc cổ đức cũng đã nói: “Thế thượng phi trượng phu đại giải thoát hán, hà năng kham thủ?” (Trên đời này nếu chẳng phải là bậc trượng phu đại giải thoát, thì làm sao đảm đương nổi sứ mệnh xuất trần”?
Vả lại, Luật dạy, vị thầy khi nhận đệ tử xuất gia phải chọn những người: về hình dạng thì sáu căn phải đầy đủ, không mắc một khuyết tật nào, về tâm hồn thì phải là người háo tâm xuất gia, có dũng khí khiên cường bất thối, chứ không phải ai cũng xuất gia được. Chả thế mà ca dao ta có câu: “Năm lừa mười lọc mới trọc cái đầu”.
Đúng ra, vì nhờ xem trước giới pháp nên Sa di biết được công dụng của giới là “phòng phi chi ác”, là “thuyền bè đưa người qua bể khổ”, nên họ mới sanh tâm khát ngưỡng, trông mong được lãnh thọ giới pháp. Khi đã hiểu giới luật, thấy những điều khó làm mà các Tỳ kheo vẫn tuân thủ nghiêm túc, thì họ càng tăng thêm thêm cung kính, chứ làm sao dám khinh thường? Mặt khác, các Tỳ kheo khi đã hiểu rằng mọi người đều biết những giới luật mình đã thọ, thì càng phải nổ lực hộ trì không dám buông lung, vì sợ thiên hạ phê bình. Kinh nghiêm thực tế cho thấy các nước Nam phương như Campuchia, Thái Lan v.v... mọi Phật tử đều biết giới luật của Tỳ kheo và họ rất tôn kính các nhà sư, chứ không bao giờ dám coi thường hay chỉ trích. Chính nhờ biết trước giới luật nên họ mới có thể tạo điều kiện và tìm cách yểm trợ các sư giữ giới tốt hơn. Tình trạng hiện nay ở thành phố ta có những kẻ lợi dụng chiếc y vàng để đi xin ăn làm tổn thương Phật pháp. Nếu Phật tử biết rõ giới luật, ắt họ sẽ tẩy chay và tìm cách ngăn chận hành vi phi pháp của những hạng người ấy, để giữ gìn sự trong sáng của đạo pháp.
Còn vấn đề này nữa, tạng Luật phải chăng là bí tạng dành riêng cho các thầy Tỳ kheo, các chúng khác không có quyền biết đến? Khẳng định như vậy thật là vô căn cứ, không có cơ sở và trái hẳn thực tế, vì trong các giới điều dành cho Phật tử cũng như Sa di, không có một giới nào ngăn cấm họ tìm hiểu giới bổn của Tỳ kheo hết. Đành rằng chỉ có các Tỳ kheo thọ 250 giới, và các Tỳ kheo ni thọ 348 giới mới có bổn phận tuân thủ giới pháp của mình, còn những người khác không ai có quyền bắt họ phải tuân thủ. Đó là nói về trách nhiệm gìn giữ, còn việc cầu thi, tìm hiểu với thiện chí hướng thượng thì ai cũng có quyền nghiên cứu giới luật Tỳ kheo mà không vi phạm bất cứ điều khoản nào.
Giả sử một hội đoàn nào đó kêu gọi chúng ta gia nhập, rồi mới cho biết nội quy và điều lệ, thì liệu chúng ta có yên tâm gia nhập hay nghi ngờ hội đoàn đó có điều gì mờ ám, bất chính? Theo lẽ thường, người có trí mỗi khi muốn tham dự một tổ chức nào chắc chắn phải tìm hiểu tận tường điều lệ của tổ chức ấy rồi mới tham gia. Đó là một việc làm hợp lý và có tinh thần khoa học.
Vả lại, Phật Giáo là đạo công truyền chứ không phải bí truyền, là đạo trí tuệ chứ không phải giáo điều, lại càng không chấp nhận sự cuồng tín. Chính đức Phật đã bác bỏ quan điểm độc quyền của Bà la môn cho rằng chỉ có giáo sĩ Bà la môn mới có quyền đọc Thánh Kinh Vệ Đà. Phật còn dạy: “Tin Ta mà không hiểu Ta, tức là hủy báng Ta”, và một chỗ khác lại nói: “Chánh pháp được thuyết giảng giống như bàn tay mở ra, chứ không phải bàn tay nắm lại”. Hoặc nói: “Phật Pháp là thiết thực hiện tại, vượt ngoài thời gian, đến để mà thấy, được người trí chứng ngộ”. Chung quy cũng chỉ nhằm nói lên tinh thần cởi mở, phóng khoáng, tự do tư tưởng và tôn trọng sự thật của đạo trí tuệ mà thôi.
Hơn nữa, bàng bạc đó đây trong một số kinh điển đều có đề cập đến giới Tỳ kheo; như Kinh Di Giáo, Phật dạy Tỳ kheo không được buôn bán đổi chác, không được mua ruộng tạo nhà, không được đào đất, đốn cây, không được coi ngày, xem tướng v.v... Như vậy toàn là giới cả, chứ có gì khác đâu. Vả lại, ngày nay, kinh điển giới luật được in ấn, phát hành rộng rãi, ai cũng có thể tự do tìm đọc, thì làm sao cấm người ta xem giới cho được.
Chẳng hạn, như ông cha ta để lại lời di chúc cho chúng ta theo đó sống hợp với đạo lý làm người, hầu trở thành một người hữu ích, có giá trị, rồi chúng ta đem cất trên khám mà thờ, không biết trong đó nói gì, thì thử hoải hành vi ấy là tôn kính hay bất kinh đối với tổ tiên?
Ai cũng biết rằng tính chất của giới luật là “thanh lương”, nghĩa là mát mẻ, là “biệt biệt giải thoát”, tức là giữ được điều nào thì giải thoát được điều ấy, thế mà bảo rằng “người nào xem trước giới luật Tỳ kheo thì phạm tội ngang bằng tội ngũ nghịch” thì thực không còn biết nói thế nào nữa! Như vậy chẳng hóa ra quyển Luật Tứ Phần là một tác phẩm văn hóa độc hại hay sao? Nói kiểu ấy thì chỉ nhìn vấn đề một cách rất phiến diện và lệch lạc. Thực sự, nếu nhiều người hiểu rành giới luật thì có lẽ xã hội sẽ tốt đẹp hơn nhiều, và những tội ác xảy ra hàng ngày làm cho chúng ta phải đau lòng chắc chắn sẽ giảm đi không ít.
Đành rằng công đức xiển dương Luật học của ngài Hoằng Tán là đáng trân trọng, chúng ta chẳng dám xem thường; nhưng nếu bảo phải tin một cách tuyệt đối vào ý kiến của Ngài, thì chúng ta không thể chấp nhận, vì nó trái hẳn với tinh thần học Phật. Đức Phật dạy: “Khi nghe một điều gì, các ngươi chớ vội bác bỏ, cũng chớ vội tin ngay, dù đó là Thánh điển”.
Thử hỏi từ khi Đức Đạo Sư chế giới, trải qua Tổ Tổ tương truyền cho đến tổ Châu Hoằng (1532-1612), giới luật vẫn thuần khiết, nhất vị, không có điều gì phải thắc mắc, đến khi ngài Hoằng tán (1611-1685) xuất hiện sau tổ Châu Hoằng gần cả thể kỷ, đưa ra một câu nói khiến cho nhiều người hoang mang, thì làm sao chúng ta không bức xúc cho được?
Do vậy, chúng tôi mạo muội nêu vấn đề này thương xác ở đây là nhằm hai mục đích: thứ nhất là hy vọng trấn an được phần nào nỗi hoang mang của tầng lớp Tăng Ni trẻ, nhất là những người mới xuất gia, chưa thọ Đại giới; thứ hai là để cho những ai tha thiết tìm hiểu giới pháp có thể nhận thức đúng đắn tinh thần giới luật mà đấng Đại giác đã từ bi truyền dạy, vì thế, tuyệt nhiên không hề có ý phê bình Ngài Hoằng Tán ở đây. Tuy vậy, chúng tôi cũng rất mong thỉnh thị các bậc tôn túc luật sư cao minh, và hy vọng nhận được sự quan tâm chỉ giáo của các vị nếu có điều chi cần phải trao đổi.

VIỆT NAM PHẬT QUỐC TỰ
Thượng tọa Thích Huyền Diệu là một vị giảng sư nổi tiếng ở một số Trường đại học trên thế giới. Nhân chuyến về thăm Việt Nam vào năm 2000, được sự thỉnh mời của Hòa thượng viện trưởng, Thượng tọa hoan hỷ nói chuyện với Tăng Ni sinh về nhân duyên hình thành nên Việt Nam Phật Quốc tự tại Bồ đề Đạo tràng, và những khuynh hướng phát triển của ngôi chùa đại diện cho Phật Giáo Việt Nam tại Thánh tích. Ban biên tập kỷ yếu xin trích đăng lại nội dung buổi nói chuyện của Thượng tọa tại giảng đường Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.
Thượng tọa Thích Huyền Diệu
I. Nhân Duyên Hình Thành Ngôi Chùa:
Cách đây 30 năm, lần đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến nơi này, lòng dâng lên niềm xúc cảm vô hạn khi nhìn thấy cái nôi Phật, nơi sản sinh ra bậc vĩ nhân mang lại sự bình đẳng, ánh sáng trí tuệ cho người dân Ấn Độ nói riêng và nhân loại nói chung đã trải dài hơn 10 thế kể và đến thế kỷ thứ 13, Phật Giáo Ấn Độ bị biến cố cực đoan quan trọng đã làm mất đi gần hết những di sản qúy báu đó. Cho đến ngày hôm nay, Phật Giáo Ấn Độ chỉ còn lại một số Phật tử rất khiêm tốn so với các tôn giáo khác đang có mặt. Trong khi đó các nước Đông Nam Á vẫn tiếp nối và phát triển mạnh nền tảng Từ bi, Vô ngã, Vị tha và bình đẳng của Ngài như là một người bạn đồng hành trong đời sống tinh thần cho mỗi con người qua nhiều thế hệ, trong đó có đất nước và dân tộc Việt Nam.
Khi nhìn thấy các nước đang góp phần để hồi sinh lại cái nôi Phật Giáo tại Thánh địa Bồ đề đạo tràng (Bodhi-Gaya), như gìn giữ những di sản vô giá của nhân loại, thì lẽ đâu Phật Giáo Việt Nam lại không góp phần thiết thực vào công việc thiêng liêng đó, mà nguyện ước này chúng tôi đã ấp ủ khi còn ngồi trên ghế các trường Đại học.
Mơ ước xây dựng một ngôi chùa Việt Nam đầu tiên nơi Thánh địa để cho người con Phật khi đến chiêm bái Thánh địa và dừng chân trú ngụ lại nơi trang nghiêm thanh tịnh trong những ngày lưu lại trên xứ Phật, và mang ánh sáng của Người đến với những ai chưa có duyên đến xứ Phật.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi đi suốt hơn 20 năm trải qua nhiều khó khăn và thử thách, nhưng chúng tôi nhận được khá nhiều niềm khích lệ lớn lao, trong đó có các bậc trưởng thượng, các pháp lữ và quý Phật tử khắp nơi hướng về đã góp thêm sức mạnh.
Truyền thống Phật Giáo Việt Nam không thua kém bất cứ một quốc gia nào trên thế giới, nâng cao lòng tự hào và ý thức bảo tồn những di sản văn hóa mà các bậc tiền nhân đã dày công tạo dựng. Đồng thời cũng muốn đem cái giá trị đích thực đó giới thiệu đến các nước, cộng đồng Phật Giáo các nước. Niềm mơ ước đó chính là động lực chính yếu để chúng tôi bền chí vượt qua.
Cuối cùng duyên lành đã đến, chúng tôi đã mua được một miếng đất và lễ đặt viên đá đầu tiên vào ngày 24-05-1987. Đó cũng chính là ngày đáng ghi nhớ để đưa Việt Nam Phật Quốc tự đi vào hiện thực.
II. Địa lý ngôi chùa:
Việt Nam Phật Quốc tự tọa lạc trên một khu đất rộng khoảng 30 công giữa những khu ruộng đất bao la cách Bồ đề đạo tràng và khu thị tứ khoảng 2 km về phía Tây Nam.
Với khu đất rộng rãi đó, chúng tôi đã sưu tập nhiều loại cây để thêm phần yên tĩnh, nhiều bóng mát, tiếng chim giúp ích cho việc tu tập và thiền định trong những ngày quý vị đến chiêm bái thánh địa.
Về kinh phí, Việt Nam Phật Quốc tự khác với những ngôi chùa lân cận được xây dựng bằng kinh phí quốc gia, mà Việt Nam Phật Quốc tự được ủng hộ và đóng góp bằng nhiều cách của đồng bào khắp nơi, nên những tiện nghi thật là khiêm tốn, song cũng bù đắp lại bằng nhiều trái cây được trồng tại chùa mà phần lớn xuất xứ từ Việt Nam và nhiều nơi mang đến. Cho nên quý vị sẽ cảm nhận được phần nào về thiên nhiên Việt Nam trên mảnh đất trù phú của xứ Ấn Độ.
III. Cấu trúc của ngôi chùa:
1.- Chánh điện: từ cổng chính đi vào, các vĩ sẽ thấy ngôi chùa được xây dựng kiên cố bằng bê tông cốt sắt hình vuông và hai mái cong vươn cao giữa những tàn cây như thể hiện truyền thống của dân tộc.
Chùa có chu vi là 64m và chiều cao là 24m, gồm có tất cả là 3 tầng. Tầng trên là pháp xá có thể dung chứa cho 30 vị khách Tăng mỗi khi đến chiêm bái Thánh địa. Tầng thứ hai dùng để trưng bày những di tích, kinh sách, pháp khí trong và ngoài nước, và tầng thứ ba là tôn thờ Tam thế Phật cùng chư vị Bồ Tát. Phía sau chánh điện là hậu Tổ, tôn thờ các vị Thánh đệ tử và các vị Thánh Tăng qua các triều đại. Đối diện với bàn thờ Tổ là bàn tưởng niệm các vị anh linh Tổ quốc Việt Nam.
2.- Tháp vạn Phật: được trang trí phía trước bên trái của Chánh điện với bán kính là 12m và chiều cao là 22m, được chia đều cho 7 tầng. Bên trong tôn thờ Xá lợi Phật và 10,000 vị Phật.
3.- Quan Âm đài: Có thể nói đây là nét riêng của Việt Nam Phật Quốc tự, cấu trúc hơi giống chùa Một Cột, nhằm để giới thiệu nét văn hóa của Phật Giáo Việt Nam cho các nước Phật giáo bạn.
Tuy nhiên, Vạn Phật và Quan Âm đài chỉ mới đặt nền móng để xây dựng trong tương lai gần đây. Sau khi hoàn tất hai công trình này. Chúng tôi sẽ tiếp tục xây dựng lầu chuông, lầu trống vì hiện nay chúng tôi đã có Đại Hồng Chung nặng hai tấn rưỡi, đường kính 3m và chiều cao là 2,50m. Trống có đường kính là 2m và chiều dài là 1.50m: tất cả đều được làm trong nước để mang nét văn hóa đặc thù của dân tộc.
IV. Pháp xá:
Hiện nay chùa đã đưa vào sử dụng hai dãy pháp xã, một cái được xây dựng dọc theo khu đất với chiều dài là 47m, gồm có 3 tầng và 21 phòng, mỗi phòng có thể ở được 3 người. Tuy nhiên, trong thời gian qua chờ đợi chánh điện hoàn tất, chúng tôi đã sử dụng hai phòng tạm thời làm chánh điện và thiền đường cho chư Tôn đức Tăng Ni và quý Phật tử có nơi tụng niệm, lễ bái và tu tập thiền định trong những ngày lưu lại.
Dãy pháp xá thứ hai được xây dựng theo chiều ngang của khu đất với chiều dài là 49m, chiều ngang 16m, gồm có tất cả 13 phòng, trong đó một nhà ăn 8x12m có thể để được 3 dãy quá đường.
Dự kiến nếu dãy pháp xá này thuận duyên thì sẽ được lên thêm hai tầng, và đồng thời trang trí nội thất một tầng hầm dành cho những phái đoàn chiêm bái vào những tháng Hè có nơi nghỉ ngơi, để tránh cái nóng khắc nghiệt thời tiết của xứ Ấn Độ.
Chúng tôi đã cố gắng tạo nên những vườn cây với nhiều loại cây trái tạo thêm cảnh thiên nhiên cho ngôi chùa, đồng thời cũng muốn góp phần gìn giữ môi sinh để cân bằng sinh thái.
1.- Cây ăn trái: Dọc theo những con đường nhỏ quanh co uốn lượn trong khuôn viên của chùa, chúng tôi có trồng nhiều cây ăn trái của vùng nhiệt đới và quen thuộc với người Việt Nam như cây trái vải, mít, táo, cam, chanh, bưởi, xoài (gồm có 30 loại cây khác nhau), ổi xá lị (cũng có đến 12 loại) và nhiều loại cây trái khác, đã và đang cho quả trong nhiều năm qua.
2.- Các  loại hoa kiểng: Phía trước chánh điện và hai dãy pháp xá, chúng tôi đã trồng nhiều loại hoa kiểng được mang giống từ quê nhà sang: hoa Đào, Mai vàng, Mai chiếu thủy, Lan, Sứ, Thiên lý v.v... và các loại cây kiểng: Tùng, Trắc bá diệp, Sao, Thông, Tre, Tầm vông, Trúc cau, Phượng vĩ, Diệp tây ...
3.- Những cây có sự liên quan đến đời sống đức Phật: Chúng tôi không chỉ mơ ước tạo cảnh thiên nhiên thuần túy cho chùa và môi sinh, mà còn hướng đến sự duy trì lịch sử Phật Giáo qua những cây cỏ có liên quan đến đời sống của đức Phật ngày xưa.
Cây Sêsam mà đức Phật đã hái nắm lá để chỉ cho hàng đệ tử về giáo pháp của Ngài ... “Ý thậm thâm vi diệu của giáo pháp mà tôi đã chứng đắc nhiều như lá trong rừng và những gì tôi đã giảng thuyết cho các thầy bằng như nắm lá trong tay của tôi vậy ...”
Cây Long Hoa (Nagarsana): đức Phật đã thọ ký cho Ngài Di Lặc sẽ ngồi dưới cây này thành đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh giác trong tương lai. Cây đó hiện nay tại Ấn Độ dường như đã mất giống, nên chúng tôi đã sang tận Miến Điện để mang về trồng.
Kế đến là một loại cỏ mà ngày xưa đức Phật nhận sự cúng dường từ một đúa bé trai chăn bò, dùng để trải dưới cội cây Bồ đề ngồi thiền định; đó là cỏ Cát tường, cây Diêm phù đề, cây Vô ưu, cây Sala, cây Nimpa ... nhiều loại cây cỏ có liên quan đến đời sống đức Phật. Ngoài ra, còn nhiều loại cây khác đã được chúng tôi chăm sóc cẩn thận như gìn giữ một di sản vô giá của Phật Giáo.
Chúng tôi đã sống xa quê hương trên 30 năm để bám trụ và thực hiện những nguyện ước bình dị trở thành hiện thực như ngày hôm nay, chỉ để góp phần nho nhỏ cho quê hương, cho dân tộc và Phật Giáo Việt Nam của chúng ta, với niềm tự hào, ý thức bảo tồn những di sản quý giá và giới thiệu ra thế giới bên ngoài. Vì vậy, chúng tôi luôn nguyện cầu Tam bảo gia hộ để trong tương lai có được các vị chân tu thật tài đức đến đây gìn giữ và phát triển đúng với tầm vóc một ngôi chùa đại diện cho dân tộc và Phật Giáo Việt Nam trên đất Phật; đồng thời góp phần cho Thánh địa nở hoa Từ bi để mang lại nền hòa bình chân chính cho nhân loại trong thế kỷ 21 này.
Đồng thời hình ảnh của các vị sẽ là một trong những yếu tố làm hồi sinh lại các Thánh tích Phật Giáo Ấn Độ, để nhân loại có một hướng đi trung đạo quân bình giữa vật chất và tinh thần mà không thể mất cân đối như hiện nay.


(Trích trong CÁT ĐẰNG TẠP LỤC)
DUNG HY PHÁP SƯ

Thích Nữ Như Đức dịch
Tam thừa Quyền giáo của Phật Giáo đều coi trọng giới Luật, Kinh Lăng Nghiêm viết: “Nghiêm tịnh Tỳ ni, hoằng phạm tam giới” (nghiêm trì tịnh giới, làm khuôn phép cho ba cõi).
Tỳ ni dịch là Luật. Đệ tử Phật là bậc đạo sư của ba cõi, phải nghiêm tịnh hành trì giới luật mới có thể độ thoát chúng sinh. Khi đức Phật sắp nhập Niết Bàn, ngài Anan hỏi: “Bạch Đức Thế Tôn, khi Đức Thế Tôn còn tại thế, chúng con nương theo Đức Thế Tôn làm Thầy, còn sau khi Thế Tôn nhập diệt, chúng con sẽ nương ai làm Thầy? Đức Phật dạy: “Các ngươi phải nương theo giới luật làm Thầy”, vì thế trong ba môn Vô lậu học, giới luật được kể trước tiên. Giới có 3 tụ:
1.- Nhiếp luật nghi giới: Thọ trì 5 giới, 8 giới, 250 giới Cụ túc ...
2.- Nhiếp thiện pháp giới: Thực hành tất cả các pháp lành.
3.- Nhiếp chúng sinh giới: Làm tất cả việc lợi ích cho chúng sinh.
Ba điều này gồm hết tất cả thiện pháp nên gọi là ba tụ.
Trong các giới này lại phân ra làm hai hệ Đại thừa và Tiểu thừa:
- 10 giới, 250 giới v.v... là giới của Tiểu thừa.
- 10 trọng giới, 48 giới khinh, Tam tụ giới là giới của Đại thừa.
Tất cả quả Thánh đều do giới mà thành tựu, cho nên Tỳ kheo thà mất thân mạng, quyết không hủy phạm giới pháp đã thọ.
Xưa kia, có một vị Tỳ kheo đi khất thực, đến đứng ngoài cửa của người thợ xỏ ngọc. Lúc ấy, người thợ đang xỏ ngọc ma ni cho Quốc vương thấy có vị Tỳ kheo đi hóa duyên, ông bèn vào trong nhà lấy thức ăn ra dâng. Trong lúc đó, con ngỗng của ông ngỡ là thức ăn nên nuốt mất của ông một viên ngọc; khi trở ra thấy mất viên ngọc, ông nghi ngờ và trách cứ vị Tỳ kheo đã lấy mất viên ngọc của mình, vị Tỳ kheo vì sợ ông giết con ngỗng đi, nên lặng yên chịu oan không nói. Người thợ bèn trói vị tỳ kheo lại đánh đập tàn nhẫn, máu vãi ra đầy đất. Thấy máu con ngỗng chạy đến hút lấy hút để. Đang con tức giận, người thợ đánh con ngỗng chết ngay. Lúc bấy giờ vị Tỳ kheo nói bài kệ:
            Khi xưa đức Bồ Tát
            Xả mạng cứu bồ câu
            Ta nay cũng thế
            Xả thân muốn thay ngỗng
            Do vì ngươi giết ngỗng
            Tâm nguyện ta chẳng thành
Khi ấy ông thợ xỏ ngọc mổ bụng con ngỗng ra, nhìn thấy viên ngọc, ông ta bật khóc to lên, nói với vị Tỳ kheo rằng: “Ngài chẳng tiếc thân mạng mình bảo hộ mạng sống con ngỗng, đã khiến cho tôi phạm điều sai lầm lớn”. (Rút ra từ Đại Trang Nghiêm luận).
Đây là tấm gương hộ trì giới sát.
Còn như các bậc cổ đức trong Thiền tông: ngài Quy Tông cuốc con rắn, ngài Nam Tuyền chém con mèo. Đó là “chánh lệnh đương hành, đại quyền đại dụng” (phương tiện đại quyền biến để khai thị của Thiền tông). Điều này cần phải luận bàn riêng thôi!
Các bậc thiện tri thức ra đời để dìu dắt chúng sinh, như bậc Đại Y Vương tùy bệnh mà cho thuốc. Chẳng hạn nói về giới uống rượu, Ngũ giới cũng phải hành trì. Đủ biết tầm quan trọng của giới không uống rượu như thế nào!
Như ngài Quán Tông sau khi đắc pháp, tự tại như như, vượt ra khỏi khuôn phép của giới luật, thích uống rượu, không ngày nào không say. Thế mà người dân trong thôn lại rất yêu kính Ngài, thường đem rượu ngon đến tặng cho, Ngài để thân thể lõa lồ bước ra tiếp lấy rượu rồi đi. Ngài vẫn điềm nhiên chẳng hề xấu hổ.
Ngài thường cởi trần đi xuống núi. Có người hỏi Ngài: “Thế nào là gia phong của đạo giả?”
Ngài đáp: “Áo cà sa gói giày cỏ”. Có một hốm Trần Quán sắp đi thi, hỏi: “Quán chuyến này muốn làm Trạng Nguyên có được không?” Ngài nhìn Trần Quán một lúc rồi đáp: “Không thời chắc được". Đến khi yết bảng, Trần Quán đỗ hạng nhì, còn Thời Ngạn được làm Trạng Nguyên. Thiền sư Đại Đạo Cốc Tuyền ở am Ba Tiêu tại Nam Nhạc bác bỏ giới luật, đi đến chùa nào đều bị đuổi cả. Ngài được Phần Dương truyền pháp ấn rồi đi về phía Nam rong chơi khắp miền sông Tương. Một hôm, Ngài cùng Tử Minh đi chơi núi, trong núi có một cái đầm là chỗ ở của con rồng độc, mỗi khi trẻ chăn trâu ném đá xuống đầm, tức khắc sấm sét nổi lên và mưa tuôn xuống cả mấy ngày. Những người đi ngang đều không dám ho hay thở mạnh. Lúc Ngài và Từ Minh trở về thì trời đã xế chiều, khí trời nóng bức, Ngài kéo áo Từ Minh cùng với Ngài xuống đầm tắm. Từ Minh không chịu, Ngài bèn cởi áo xuống tắm một mình, Ngài vừa nhảy xuống thì sấm sét ầm ầm nổi lên, gió lạnh thổi, mưa tuôn, rừng cây chấn động, Từ Minh ngồi xổm trên bãi cỏ định bụng chắc phen này Cốc Tuyền đi đứt. Chẳng mấy chốc tạnh mưa, Ngài rướn cổ lên khỏi làn sóng, kêu kên “Khoái quá!”.
Ngài cũng đã từng đi qua huyện Hành Sơn, thấy anh hàng thịt đang xẻ thịt, bèn đứng kế bên làm ra vẻ rất đáng thương, chỉ tay vào miệng. Anh hàng thịt thấy vậy hỏi “Ông câm à?” ngài gật dầu. Anh hàng thịt thấy tội nghiệp, bèn cắt một miếng thịt to để vào bát của Ngài. Ngài hớn hở khác thường nói cảm ơn rồi đi. Cả chợ cười rộ lên. Ngài thường dùng gậy quảy bầu rượu, qua lại trong núi. Có người hỏi trong bầu rượu có vật gì? Ngài đáp, “Nước cốt của đại đạo”. Rồi tự nói bài kệ:
            Thong dong cùng mặt đất
            Rong ruổi khắp cuối trời
            Thân choàng manh khố rách
            Ăn xong lại ngủ vùi
            Mặc ngày qua trời rạng
            Kệ đêm đến trăng soi
            Sá gì câu vinh nhục
            Can chi chuyện đổi dời
            Quảy bầu rượu nóng trên đầu gậy
            Non Nam núi Bắc mặc tình chơi!
Vào niên hiệu Vĩnh Hựu, đời Tống, Nam Tử Lãnh Thanh bị người sàm tấu mà vướng vào tội chết, lúc quan binh vây bắt. Lãnh Thanh từ trong am Ba Tiêu chạy ra. Do đó, Cốc Tuyền bị tội liên can, bị phạt trượng, đày đi làm quân lao (khổ sai) ở Bân Châu, phải gánh đất dưới nắng gắt. Bỗng dưng Ngài bỏ gánh xuống nói bài kệ:
            Sáng nay ngày mùng Sáu
            Cốc Tuyền bị đi đày
            Nếu chẳng lên thiên đàng
            Ắt phải vào địa ngục.
Nói xong Ngài mỉm cười thị tịch, thản nhiên như ve sầu thoát xác. Khi hỏa táng Ngài, xá lợi nhiều không đếm xiết. Người Bân Châu xây tháp thờ Ngài, hiện nay tháp vẫn còn.
Ngài Hồng Phạm tán thán rằng: “Sống là cái đáng quý, chết cái đáng sợ, không tránh cái đáng tránh. Việc làm của Ngài như thế không biết là thật hay giả. Điều này chỉ có trời đất biết. Lúc bấy giờ trong Thiền môn sự nghiêm túc được kính trọng, Sa môn tu hành thanh tịnh được đề cao, hể có tỳ vết thì càng chê bai mắng nhiếc, phải chăng Cốc Tuyền đem việc này sửa sai chăng?”
Trên quan điểm này, Thiền sư Cốc Tuyền chỉ là dùng thân mình để làm phương thuốc thôi. Người xưa liễu ngộ đại sự rồi càng canh cánh bảo nhậm, hộ trì cấm giới như giữ tròng con mắt của mình. Còn như Hòa thượng Long Sơn, ẩn dật nơi non cao, rừng sâu cũng không ngoài việc điều phục những tập khí nhiễm trước từ vô thỉ.
Một hôm Động Sơn chùng Mật sư đi du phương hành cước, ngang qua Long Sơn thấy trong dòng suối có lá rau, Động Sơn nói: Núi sâu không có người, sao lại có lá rau trôi theo dòng suối, phải chăng là có đạo nhân trong núi sao”. Nói xong hai Ngài cùng nhau lần theo dòng suối đi lên khoảng 5-7 dặm, chợt thấy có một vị Tăng (Long Sơn) thân hình gầy ốm, diện mạo khác thường, bèn bỏ hành lý xuống thăm hỏi.
Ngài Long Sơn hỏi: Núi này không có đường vào, Xà lê làm sao đến đây được?
Động Sơn đáp: Việc không có đường hãy gác lại, Hòa thượng làm sao vào núi được?
- Ta không từ mây nước mà đến.
- Hòa thượng ở núi này bao lâu rồi?
- Chẳng dính gì đến năm tháng.
- Hòa thượng có trước hay núi có trước?
- Chẳng biết.
- Vì sao chẳng biết?
- Ta chẳng từ trời, người đến.
- Ngài được đạo lý gì mà đến ở núi này?
- Ta thấy hai con trâu đất đấu nhau vào biển, mãi đến nay cũng chẳng có tin tức gì.
Động Sơn bèn đầy đủ oai nghi bái Long Sơn hỏi:
- Thế nào là khách trong chủ?
- Núi xanh che mây trắng.
- Thế nào là chủ trong khách?
- Lâu năm không bước ra khỏi cửa.
- Khách chủ cách nhau bao xa?
- Sóng trên nước Trường Giang.
- Khách chủ gặp nhau có lời gì?
- Gió mát đùn trăng sáng.
Sau khi Động Sơn cáo lui, Long Sơn nói bài kệ:
            Lá sen làm áo một ao đầy
            An sẵn hoa tùng khắp đó đây
            Chỗ ở từ nay người biết đến
            Dời am vào núi khỏi ai hay.
Long Sơn đốt am, đi biệt vào trong rừng sâu, không ai biết dấu vết sư nữa.
Ngoài ra, những bậc Đại đức lo đóng cửa tịnh tu ngừa lỗi ngăn quấy, 20-30 năm không xuống núi, không thể kể hết. Nay đạo giả Quán Tông và Thiền sư Cốc Tuyền phóng đãng đến như thế là để xả thân cứu người, thế thì đâu là cung bậc của các Ngài? Bởi không biết ngộ có sâu cạn, sức mạnh có yếu, nguyện có thế này thế khác. Kinh Lăng Nghiêm viết: “Trì phạm chỉ để thúc liễm thân, nếu chẳng có thân thì thúc liễm cái gì?”
Bậc thiện tri thức dứt bỏ tất cả, việc đến thì làm, sao mà biết được tung tích của họ!
Đạo giả Quán Tông thấu suốt ba đời, Thiền sư Cốc Tuyền định lực rốt ráo. Hai bậc tông tượng này há không biết nơi phải đến sao? Tuy nhiên, cần phải đạt đến một mức độ nào đó thì mới nói chuyện, chứ còn muốn bắt chước các vị ấy phóng đãng hình hài thì sẽ đọa vào địa ngục nhanh như tên bắn.
Ở đây, tôi xin đưa ra một thí dụ, giới luật giống như “quy củ” (compa và thước). Khi vẽ vòng tròn thì dùng “quy” (compa), khi vẽ hình vuông thì dùng”củ” (thước), nhưng Ngộ Đạo Tứ đời Đường vẽ hào quang của chư Phật, chỉ huơ bút một cái là xong ngay, dùng thước quy để đo lại thì không sai một mảy. Phải có năng lực của Ngô Đạo Tứ mới vẽ được như thế, Nếu người khác bắt chước vẽ theo chắc chắn sẽ giống như miệng của cái túi, làm sao có thể tròn được? Cho nên, theo tôi nghĩ: Vấn đề giới luật Phật Giáo là một việc cực kỳ quan trọng.

Thượng tọa Thích Đạt Đạo
Từ xưa đến nay hầu hết ngộ nhận vật chất nhân sinh là quan điểm cốt yếu. Mù quáng xem vật chất nhân sinh là thật vĩnh viễn, hiểu lầm những cai giả tướng cho là thật tướng. Đó là những căn nhà được xây bằng gạch, trinh, cột, kèo, lợp ngói, tráng xi măng. Những căn nhà này sẽ bị hủy hoại theo thời gian. Cho nên, nó chỉ là căn nhà cho ta tạm ở nương thân xác để đạt đến căn nhà thật sự của nội tâm.
Chúng ta lắng nghe một cách cung kính bài thuyết pháp về ngôi nhà thật sự của vị giảng sư. Chúng ta hãy chú ý từng lời như là chính đức Phật đang ở trước mắt chúng ta. Xin hãy nhắm mắt lại và giữ thân thoải mái, nhiếp tâm lại để được định. Hãy tỏ lòng tôn kính bậc giải thoát, để tâm tràn đầy ba điều: Trí tuệ, chân lý và trạng thái thanh khiết.
Chúng ta nên biết rằng ngay chính đức Thế Tôn với vô lượng công đức mà còn không tránh được cái chết của thể xác, Ngài bỏ thân xác, bỏ gánh nặng. Bao nhiêu năm qua chúng ta nhờ cậy thân xác để hiểu biết là quá dư! Nhưng thể xác của chúng ta nó biến đổi ngay từ khi ta mới sinh ra. Khi còn bé, lúc mới lớn và cho đến giờ đây khi tuổi đã già, ta phải chấp nhận điều đó.
Phật dạy các hành giả, dù thuộc về thân hay tâm đều vô thường vô ngã. Hãy quán xét chân lý này cho đến khi nào ta hiểu được rõ rằng nụ cười của sụ chết trên đôi mắt của chúng ta.
Chính đống thịt hư hoại đang nằm đây là Saccadhamma, chân lý - chân lý nằm trong thân xác và lời dạy không di dịch của đức Phật. Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân thể, quán niệm và thấu hiểu bản chất của nó.
Chúng ta phải sống an lạc với nó dù nó ở trong bất cứ tình trạng nào. Phật dạy chúng ta phải luôn nhớ, biết rằng chỉ có thân thể mới bị giam trong tù ngục, còn đừng để tinh thần cũng bị giam hãm trong đó.
Đức Phật dạy: Sinh ra, già cỗi, bệnh hoạn rồi chết. Đây là chân lý vĩnh cửu mà chúng ta đang phải đối diện. Đó là bản chất tự nhiên của thể xác, không thể nào khác đi được. Hãy nhìn lại thân xác với con mắt của trí tuệ và thấy ra chân lý. Dù ngôi nhà chúng ta bị ngập lụt hoặc thiêu đốt trong tâm. Hãy để tâm rũ bỏ mọi quán niệm. Chân lý này được áp dụng cho tất cả chúng ta ngay cả đức Phật và các Thánh đệ tử của Ngài.
Cuộc đời lạ lùng, mỗi cuộc đời là một sự mâu thuẫn, một chân lý mới, một phép lạ mới. Chúng ta phải bỏ tất cả tư tưởng và lăn mình vào cuộc sống, cuộc đời mâu thuẫn. Đây không phải là bi kịch, chỉ bi kịch là khi người ta sợ mâu thuẫn, chân lý là sự bí mật!
Con người chúng ta ngày trước, bây giờ không còn nữa, con người hồn nhiên ấy cũng chết theo dòng đời. Đôi mắt chúng ta ngày nay không còn là đôi mắt của ngày xưa. Chúng ta là một kẻ khác lạ, không phải là chúng ta nữa.
Có khi nào chúng ta ra phố và giật mình nghe chúng ta cười tất cả những điều thảm thương ở trần gian, sự ngộ nhận khắp nơi, sự xung đột đời đời, sự hung dữ tàn ác, những điều làm con người trở nên một vật nham hiểm, chúng ta cười sự chết.
Chúng ta phải thương yêu tất cả nhân loại, yêu cả những kẻ thù, yêu cả những điều chúng ta ghét, yêu hết mọi vật ở trần gian này.
Chúng ta phải biết rằng rồi đây chúng ta sẽ chết, bởi thế nên chết là một thực tại, sống cũng là một thực tại, chết không thể nào tránh được cũng như sống không thể nào tránh được. Chúng ta đã sống một thời gian dài. Mắt chúng ta đã thấy nhiều hình thể, màu sắc. Chúng ta đã có đủ thứ kinh nghiệm, và tất cả chỉ là vậy - những kinh nghiệm - chúng ta đã nếm nhiều đồ ăn ngon và vị ngon chỉ là vị ngon, chẳng có gì hơn, vị dở cũng chỉ là vị dở, chỉ thế thôi.
Nếu mắt có thấy hình sắc đẹp thì chỉ là hình sắc đẹp, vật xấu chỉ là vật xấu, tai nghe một âm thanh du dương, lôi cuốn thì cũng chỉ có thế, chẳng có gì hơn. Một âm thanh chói tai, khó nghe thì cũng chỉ vậy thôi.
Đức Thế Tôn đã dạy dù nghèo hay giàu, già hay trẻ, người hay vật, không một ai trong thế giới này có thể giữ tình trạng nguyên thủy. Mọi vật đều thay đỗi và thành khác đi. Đây là một thực tế của cuộc đời mà ta không cách nào sửa đổi.
Tuy nhiên, đức Thế Tôn dạy điều ta có thể làm là quán sát thân và tâm để thấy tính vô ngã của nó, để thấy không có cái nào là “Tôi” hay “Của Tôi”. Chúng ta chỉ có tình trạng tạm thời. Cũng giống như ngôi nhà này, chỉ là của chúng ta trên danh nghĩa, nhưng ta không thể mang nó theo bất cứ nơi đâu. Cũng vậy, tài sản, sự nghiệp, gia đình được ta, tất cả chỉ là của ta trên danh nghĩa, chúng không thực sự thuộc về ta, chúng thuộc về lẽ tự nhiên.
Chân lý này không thể chỉ áp dụng cho bản thân ta mà cho tất cả mọi người, ngay đức Thế Tôn và các vị Thánh đệ tử của Ngài. Họ chỉ khác chúng ta ở một điểm là họ chấp nhận bản chất mọi thứ là như vậy, không có cách nào khác hơn. Do đó, đức Thế Tôn dạy chúng ta nên phân tích và quán sát thân thể này, từ gót chân lên đến đỉnh đầu, rồi trở ngược xuống gót chân. Hãy thử nhìn ta thấy những gì? Có cái gì thực sự sạch sẽ không? Ta thấy cái gì thường còn không? Cả thân thể này chắc chắn đang tan hoại và đức Thế Tôn dạy ta thấy rằng nó không thuộc về ta. Lẽ dĩ nhiên thân thể là như vậy. Bởi các hiện tượng hữu vi đều biến đổi, ta làm sao muốn chúng khác hơn?
Thực ra, chẳng có gì sai lầm khi thân thể là như vậy, không phải thân thể làm ta đau khổ, mà chính là cách suy nghĩ sai lầm của ta. Khi ta thấy cái đúng thành sai thì sẽ gặp phiền não. Nên ta phải sống trong những giây phút thiên thu bất diệt. Giờ đây, ta thấy ta có thể làm bất cứ chuyện gì trên đời này. Ta phải sống trọn vẹn với ta. Ta không còn đau khổ nữa. Ta chấp nhận đau khổ “Không có sự đổ vỡ nào mà vô phương cứu chữa. Tất cả ý nghĩa cuộc đời nằm trong chữ “đau khổ”. (H. Miller). Chính sự đau khổ đã làm cho cuộc đời trở nên có ý nghĩa và đáng sống. Ta không còn than van oán trách nữa. Ta cười, ta thường nghĩ đến sự đau đớn và sau cùng ta chỉ biết cười. Sống là thiêng liêng. Đau khổ cũng thiêng liêng, không có sự đau khổ, ta không thể nào đi vào được bên trong cuộc đời và không thể nào hiểu được những bí mật của đời người. Không có sự đau khổ ta sẽ nằm triền miên trong giới hạn, chán cuộc sống tẻ nhạt. Sự đau khổ làm phong phú tâm hồn ta. Biết đau khổ mà không than mới là chân lý của đời.
Sự đau khổ là phiền não. Cũng giống như nước sông chảy xuôi dòng một cách tự nhiên, không bao giờ chảy ngược. Bản chất nó là như vậy.
Nếu một người đứng trên bờ sông, thấy được nước đang chảy nhanh xuôi dòng, lại ngông cuồng muốn nó chảy ngược lên thì anh sẽ đau khổ. Dù anh ta có đang làm bất cứ điều gì thì cách suy nghĩ sai lầm của anh ta cũng sẽ làm cho anh ta không có chút yên tĩnh tâm hồn. Anh ta sẽ đau khổ vì quan niệm và suy nghĩ sai lầm, muốn đi ngược dòng. Nếu anh ta biết đúng, anh ta sẽ thấy là phải chảy xuôi dòng; và bao lâu mà anh ta chưa thấy ra và chấp nhận điều đó, anh ta sẽ xáo trộn và bất an.
Thân thể chúng ta cũng vậy từ trẻ rồi già đến chết. Đừng mong nó khác hơn. Chúng ta không có khả năng sửa đổi. Phật dạy chúng ta đừng có quyến luyến và chấp nhận bản chất của nó. Chúng ta phải lấy tâm buông bỏ làm trú xứ. Tiếp tục hành thiền, dù ta đang mệt mỏi, kiệt sức. Để tâm an trú vào hơi thở, niệm “Buddho”. Tập cho thành thói quen. Càng đuốí sức càng tạp trung vi tế hơn, như thế có thể chịu đựng những sự đau đớn về thể xác vừa sinh khởi. Khi ta cảm thấy mệt mỏi ta đừng suy nghĩ lại và chỉ biết có hơi thở, chỉ giữ niệm trong tâm: Buddho-Buddho. Ta rũ bỏ mọi thứ bên ngoài. Để tâm tập trung vào một điểm duy nhất và dùng tâm đã an trú theo dõi hơi thở - chỉ để hơi thở là đối tượng duy nhất của tâm. Tập trung đến khi nào tâm càng ngày càng gạn sạch, mọi cảm xúc không cò mạnh mẽ nữa mà chi còn sự tinh khiết nội tâm rộng lớn cùng sự tỉnh thức. Lúc đó, nếu cảm giác đau đớn có sanh khởi thì nó cũng sẽ tự tan biến. Phương cách này, đừng đem bất cứ gì theo chúng ta. Phải nhận biết và sau khi đã biết rồi, hãy buông bỏ.
Ngôi nhà thực sự của chúng ta là sự an tĩnh nội tâm. Ngôi nhà vật chất bên ngoài có thể rất đẹp đẽ, nhưng nó không mấy an tĩnh. Có những mối bận tâm này rồi mối bận tâm kia, lo âu này rồi lo âu kia. Bởi thế nó không phải là ngôi nhà thật sự của chúng ta. Nó ngoài ta và sớm muộn gì rồi ta cũng xa rời nó. Đó là nơi ta không thể sống vĩnh viễn, bởi nó không thật sự thuộc về ta. Nó là một phần của thế gian, thân thể ta cũng tương tự như vậy. Ta cho nó là “Ngã”, là “Ta”, là “Của Ta”. Nhưng thực sự không phải như vậy, nó cũng là một ngôi nhà khác của thế gian, vì thế cho nên đức Phật dạy:
            Các hành đều vô thường
            Bản chất thường sinh diệt
            Có sinh tất có diệt
            Ngưng nó được là chân hạnh phúc.

GỞI VỀ QUÝ VỊ TĂNG NI SINH THÂN MẾN
Giáo sư Trần Phương Lan
Phụ trách Môn Anh văn Thuật ngữ
Thấm thoát bốn năm học tại Học Viện này sắp trôi qua. Tất cả sinh viên đã và đang chuẩn bị đầy đủ hành trang bước vào cuộc đời rộng rãi hơn cuộc đời học trò trong mái trường hiện tại. Sau nhiều năm dùi mài học tập, giờ đây tất cả quý vị sẵn sàng tiến lên theo hướng đời mình đã chọn lựa bấy lâu.
Trong suốt thời gian quý vị học với tôi, tôi đã nhận thấy quý vị khóa này cũng như quý vị khóa trước đều nổ lực học tập môn “khó tiêu” này, và đa số đã đạt kết quả tương đối tốt. Những khuôn mặt vui tươi chăm chỉ và ý thức cầu tiến của đa số quý vị đã khích lệ tôi trong việc giảng dạy một môn học còn khá mới lạ đối với số đông, nhưng tôi vẫn luôn hy vọng sau khi quý vị đã vượt qua những khó khăn ban đầu, quý vị sẽ nhận thấy ích lợi lâu dài của việc nghiên cứu kinh điển qua Tiếng Anh và dần dần quý vị sẽ cảm thấy thích thú khi mình càng ngày càng tiến bộ để đáp ứng với nhu cầu học tập của các thế hệ Tăng Ni trẻ trong tương lai.
Tôi vẫn luôn ghi nhớ những tình cảm thân thiết quý báu mà cả hai lớp Tăng Ni khóa IV này dành cho tôi trong những năm học qua những dịp lễ Nhà giáo, Lễ Quốc tế Phụ nữ và ngay cả trong sinh hoạt bình thường ở trong và ngoài trường lớp.
Tôi hy vọng sau khi rời Học Viện, tất cả  quý vị vẫn luôn tinh tấn trau dồi phẩm cách đạo đức và tiếp tục trang bị thêm kiến thức của một sứ giả Như Lai để hòa nhập vào cộng đồng Phật Giáo thế giới sánh vai cùng các pháp hữu năm Châu và làm rạng danh Phật Giáo Việt Nam trong thời đại toàn cầu hóa này.
Thân chúc tất cả Quý vị được thành công như ý trên đường tu học và hoằng pháp sau này.


MỘT MÔN HỌC KHÓ “ƯA”?
Đại đức Thích Tâm Đức
“Sư phụ”, hai tiếng thật thân thương làm sao! Đó là âm thanh mà tôi thường được nghe mỗi lần gặp gỡ các Tăng Ni sinh của HVPGVN tại Saigon, và thú thật, tôi cũng không ngờ mình lại có nghiệp duyên với nghề dạy học mà môn đầu tiên lại là Pàli, một cổ ngữ Phật Giáo thật khó “ưa”.
Nhưng dù thế nào đi nữa mình cũng phải bằng cách nào đó giúp Tăng Ni sinh chuyển “thành kiến” với môn học này, và trước hết, sau khi “test” trình độ và tâm lý của TNS tôi đã có những cách dạy và phong cách thích hợp.
Mỗi TNS được nhận những “bửu bối” là những bảng tóm tắt ngữ pháp ngắn gọn và được khích lệ lên bảng làm bài tập trong tinh thần “cả lớp cùng làm”, “sai càng tốt”, “học vì thực chất chứ không phải vì điểm thi ...” Môn học được làm “kêu” lên bởi có thêm chữ viết Devanagari và thầy trò cùng học với nhau trong tinh thần “huynh đệ”.
Thế rồi, thời gian trôi qua, số lượng TNS ngày càng tăng thêm trong việc hiểu và thích thú môn học Pàli này, một môn học đã phổ biến từ lâu không những ở các nước Phật Giáo Nguyên thủy như Thái Lan, Tích Lan ... mà còn phổ biến ở các nước Phật Giáo Đại thừa như Nam Triều Tiên, Nhật Bản, Đài Loan; thậm chí còn được khá phổ biến ở các nước phương Tây. Ngay ở Anh Quốc có hội Pàli Text Society chuyên dịch Tam Tạm Pali ra tiếng Anh. Một môn học thật cần thiết cho việc nghiên cứu tư tưởng Phật Giáo Nguyên thủy thẳng vào nguyên bản, nhưng ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn quá ít người hiểu biết.
Và thật khích lệ biết bao khi càng ngày có thêm những âm thanh thân thương “Sư phụ ơi, sư phụ mà dạy sớm hơn một tí nữa thì tụi con đỡ biết mấy!”, “Con đi Thái Lan học mấy năm mà vẫn chưa biết được nguồn gốc của chữ Pàli và mãi đến nay mới biết được", “Sư phụ ơi, tụi con học Pàli là vì sư phụ đó! ...”
Cuối cùng, tôi rất mừng khi thấy có những TNS đã thật sự thích thú và nắm vững được căn bản của môn học này, và hy vọng họ sẽ phát huy hơn nữa và truyền bá ra trong tương lai sau khi ra trường và cũng qua đó mà thâm nhập vào tinh hoa tư tưởng của Phật Giáo Nguyên thủy mà giá trị của nó như đã được một học giả Nhật Bản nổi tiếng, Kimura Taiken, nhận xét: Ta sẽ không hiểu đúng tư tưởng Phật Giáo Đại thừa nêu không hiểu được tư tưởng Phật Giáo nguyên thủy”.
Mong sao môn Pàli được phổ biến hơn nữa và đến tận mọi trường Phật học trên cả nước Việt Nam thân thương của chúng ta.

GS. Hoàng Thiệu Khang
            Cố giáo sư Hoàng Thiệu Khang đã đến với chúng ta với tất cả tầm lòng đầy nhiệt
                huyết của một con người luôn hy sinh tất cả để rồi trở về cõi hư vô. Trong cái cõi
                vô thường ấy luôn luôn hiện hình ảnh của một bông hoa mỹ miều và tươi đẹp.
                Chính đóa hoa vô thường ấy đã tạo cho vườn hoa thẩm mỹ Phật Giáo ngày càng
                phong phú hơn. Để tưởng nhớ và trước ân những gì mà cố Giáo sư đã cống hiến và
                để lại trong ký ức của mỗi Tăng Ni chúng ta. Ban Biên Tập Kỷ Yếu xin trích đăng
                bài viết sau đây của cố Giáo sư.
Lịch trình tư tưởng thiền học là sự khỏi cái Thường để thấy được cái Vô thường, khỏi cái Ngã để tiến tới cái Vô ngã. Lịch trình Mỹ học của Thiền học là sự nhìn nhận chân phạm trú cái Bi để tiến lên cái Đẹp nơi từng nhân cách. Hai lịch trình đó là linh hồn của Thiền học.
Như vậy, Thiền là tư tưởng triết học, cũng vừa là thái độ, cách thể sống của con người Giác ngộ.
Con người Giác ngộ ấy, trước hết bộc lộ mình nơi con mắt nhìn cõi tự nhiên và nhìn cuộc sống. Đó là đôi mắt đạt đến độ Tuệ Nhân.
Bằng đôi mắt Tuệ Nhân ấy, các vị Thiền sư đã nhìn cảnh mùa xuân. Đó là ý niệm thời gian của bậc minh triết.
Mùa xuân được Thiền su cảm nhận như là một tương đối của cái Vô thường tuyệt đối. Đó là thời gian được hiện tượng hóa, vật thể hóa, biểu thị cho quy luật đang vận hành ẩn tàng trong vũ trụ. Đó là dòng chảy mang tính chất tự nhiên, khách quan.
Mãn Giác Thiền sư đã nhìn Xuân:
            Xuân trôi trăm hoa rụng
            Xuân tới trăm hoa cười
            (Xuân khứ bách hoa lạc
            Xuân đáo bách hoa khai).
Vạn Hạnh Thiền sư cũng đã nhìn mùa xuân:
Cây cối xuân tươi, thu não nùng (Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô)
Trung tâm nội dung của những câu kệ và câu thơ trên được nằm trong ý nghĩa của hai chữ “Vô tình”. Nó không mang nghĩa thông thường, nghĩa tâm lý, tình cảm (thờ ơ, lạnh nhạt ...) đó chỉ là một thuật ngữ triết học. Nó chỉ định tính chất khách quan của quy luật. Đã là quy luật thì không phụ thuộc vào bất cứ ý chí ý muốn chủ quan nào cả, không thiên ái thiên vị. Như vậy “Vô tình” là một khái niệm nằm trong phạm trù Vô thường. Dưới một thác nước từ trời cao đổ xuống thì nhà sang hay nhà hèn ... đều bị cuốn trôi như nhau.
Tư tưởng này cũng được Lão Tử đề cập tới trong trong chương V của Đạo Đức Kinh:
            Trời đất không có Nhân
            Coi vạn vật như loài chó rơm
            Thánh nhân không có Nhân
            Coi trăm họ như loài chó rơm.
            (Thiên địa bất Nhân
            Dĩ vạn vật vi sô cẩu
            Thánh nhân bất Nhân
            Dĩ bách tính vi sô cẩu).
Thoạt nghe thấy lạ lùng! Nhưng nếu hiểu cái nghĩa đích thực của chữ “đạo” thì sẽ hết thắc mắc. Đạo là cái luật lạnh lùng của trời đất, không tư vị ai cả nên gọi là “bất nhân”. Bậc Thánh nhân đã là Đại giác lẽ Đạo nên cũng hành xử theo quy luật. Về sau Lão Tử nói rõ cái nghĩa hai chư “bất nhân” này trong bài “Sô Cẩu”.
Như vậy, cặp mắt nhìn vũ trụ trong Vô thường là cặp mắt khám phá được luật biến động, vận động, đổi thay ... của vũ trụ, dẫu chúng đã hiện hành nơi cõi tự nhiên hay đang âm thầm tiềm ẩn.
Cặp mắt Đại giác ấy đã nhìn vào cõi nhân sinh. Cõi ấy cũng Vô thường. Nó luôn luôn vận động tuyệt đối, một thay đổi liên tục “Thế gian biến cải vũng nên đồi” (Nguyễn Bỉnh Khiêm), hay “Sông xưa rày đã biến nên đồng”.
Trước cái lẽ biến đổi bất tận ấy, con người phải cảm nhận và xử sự như thế nào? Đó là cái lẽ thứ hai của Thiền.
Vạn Hạnh Thiền sư đã nhìn vào thân để chiêm nghiệm:
            Thân như bóng chớp có rồi không
            (Thân như điện ảnh hữu hoàn vô)
Như vậy, đừng bao giờ nghĩ rằng cái thân của ta là vĩnh viễn có, là Thường. Tất cả tạo vật, con người đang sống chỉ là ở “trọ” mà thôi.
            “Con chim ở đậu cành tre
            Con cá ở trọ trong khe suối nguồn ...
            Trăm năm ở trọ ngàn năm”
                        (Trịnh Công Sơn)
Lầm tưởng mình là có cũng vì cái căn ngã của mình còn nặng. Thường và Ngã là hai biểu hiện tập trung của ngộ nhận, của cái Bi thẩm mỹ. Tất cả đều là trong sự điều hành vô hình của Vô thường. Cho nên đừng mải miết đi trong cõi phù du mờ mịt của thân ta đòi hỏi:
            “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi
            Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt
            Trên hai vai ta hai vầng nhật nguyệt
            Rọi suốt trăm năm một cõi đi về”.
Con người phải tiến được đến cách thể Vô ngã. Có như thế thì con người mới được an nhiên tự tại. Đã  thức nhận được thân như là bóng chớp, thức nhận được “cây cối xuân tươi, thu não nùng” thì không còn cảm giác sợ hãi:
            “Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi”    
            (Nhậm vận thịnh suy bô bổ uý)
Ta coi thịnh cũng như suy đều chỉ là tạm thời. Chúng đều nhẹ như giọt sương đọng trên lá cỏ (Thịnh suy như lộ thảo đầu phô). Vả chăng trong thịnh có suy và trong suy có hàm chứa một tiềm năng, một khả thế của thịnh. Nhìn được thịnh suy như vậy mới thanh thản tinh thần. Lão Tử cũng đã nói cái nghĩa ấy trong một câu ở chương XIII của Đạo Đức Kinh: “Vinh trên thì nhục dưới” (Sủng vị thượng, nhục vị hạ), đó chính là lẽ biện chứng nhân sinh.
Lại nữa thịnh suy cũng chỉ là những cái diễn ra trong cõi hiện tượng, cõi “sự vật cho ta” (E.Kant) mà thôi. Thật ra là cõi huyễn tượng.
Giác Hải Thiền sư đã nhìn vào cái tươi tốt rộn rã của mùa xuân bắng cặp mắt Đại giác ấy:
            Xuân sang hoa bướm khéo quen thì
            Bướm liệng hoa cười vẫn đúng kỳ
            Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo
            Thấy hoa mặc bướm để lòng chi
            (Xuân lai hoa điệp thiên tri thì
            Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
            Hoa điệp bản lai giai thị uyển
            Mặc tu hoa điệp hướng tâm trì)
Tất cả thế giới hiện hình chỉ là một cõi bát ngát của huyễn ảo. Cho nên cũng đừng bị huyễn hoặc bởi nó. Không bị huyễn hoặc nữa thì lòng ta thanh thản. Lúc ấy nói như Thiền sư Hiện Quang:
            Mông mênh quăng đồng ruộng
            Tùy ý tự rong chơi
            (Vô vi cư khoáng dã
            Tiêu dao tự tại thân)
khỏi Thường và Ngã con người trở thành lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống. Thiền sư Mãn Giác đã phát biểu tư tưởng ấy:
            Đừng tưởng Xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua sân trước một cành mai
            (Mặc vị xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai).
Không phải đến mùa Xuân sau, ngay trong mùa Xuân tàn này vẫn đang chất chứa một tiềm năng của sự sống sinh nở. Đó là cái nhìn biện chứng của Thiền.


(Trích “Giáo dục Phật Giáo trong giai đoạn hiện đại”
tại buổi hội thảo về Giáo dục Phật Giáo do
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam tổ chức -1995)
Giáo sư Hoàng Như Mai
Theo sự nhận xét và suy luận của tôi, Phật Giáo đến với giới trí thức gặp nhiều khó khăn trở ngại. Tôi nói đây là nói về trí thức nói chung chứ không phải trí thức này hay người trí thức khác cá biệt.
Giới trí thức Việt Nam xưa, quen gọi là giới Nho sĩ, từ nhỏ, nếu không nói từ trong thai, đã học đạo Khổng, Ý thức của họ được hình thành và phát triển theo quỹ đạo của đạo Khổng.
Đạo Khổng là học thuyết của giới cầm quyền, trị nước, đạo Khổng đào tạo ra những con người sẽ lãnh trách nhiệm cầm quyền trị nước, vốn được mệnh danh là quân tử. Quân tử nghĩa chữ là con của vua. Quân tử là những người cai tri, bọn thường dân được gọi là tiểu nhân, nghĩa chữ là người nhỏ. Quân tử đức phong tiểu nhân đức thảo thảo thượng phong phi.
Trái lại, đạo Phật là đạo của chúng sinh, trong phạm vi nhân loại, là quần chúng đông đảo.
Như vậy, những người được đạo Khổng đào tạo đứng ở vị trí đối lập với đạo Phật. Xin được nhắc lại nói vậy là nói chung về nho sĩ, chứ cũng có những nho sĩ hiểu và có cảm tình với đạo Phật như Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du ... thì đó là những người cá biệt.
Giới trí thức hiện nay, nếu không được trực tiếp đào tạo bởi đạo Khổng thì thông qua gia đình, sử sách, phong tục tập quán ... vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của Khổng giáo, và đó là một bức tường thành, hoặc ít nhất là một sự vật cản ngăn cách họ với đạo Phật.
Nói về phương pháp tư tưởng thì đạo Khổng chủ yếu là duy lý. Đã chịu ảnh hưởng duy lý của Khổng giáo qua truyền thống, họ lại bị nhồi sọ bỏi chủ nghĩa duy lý và tư tưởng khoa học phương Tây từ nhỏ đến lớn suốt cuộc đời. Các thế hệ từ đầu thế kỷ XX chủ yếu là được đào tạo từ các trường học theo chương trình giáo dục Pháp hoặc ở trong nước hoặc ở nước ngoài. Kiến thức, phương pháp, tư tưởng của họ được đúc khuôn phương Tây. Rốt cuộc họ trở nên xa lạ với văn hóa phương Đông mà họ không hiểu, vì thế không chấp nhận, có chấp nhận kiểu nào chăng thì cũng là miễn cưỡng để khỏi mang tiếng là vong bản.
Trong những điều kiện ấy, Phật Giáo không được họ đón nhận, nếu không đến được với họ thì cũng rất khó khăn và không có gì đảm bảo chắc chắn là đã được hiểu rõ.
Tôi tự lấy mình làm dẫn chứng.
Khi đọc trong sách về những công án thì cách suy nghĩ duy lý trong tôi phản ứng ngay. Thí dụ tiếng vỗ của một bàn tay. Tại sao lại một bàn tay mà làm được tiếng vỗ? Muốn có tiếng vỗ thì phải hai bàn tay vỗ vào nhau chứ. Hoặc nói về sắc không cũng vậy. Làm sao vừa có vừa là không. Lý luận duy lý không thể chấp nhận dưới diện đó.
Khi nói về Nhân quả, Luân hồi v.v... thì cái học vấn khoa học trong tôi phản đối quyết liệt. Làm sao chứng minh những điều này một cách khoa học để được thuyết phục.
Đúng như một truyện Phật Giáo đã kể: tôi như một ly nưóc đã đầy đến tận miệng những trí thức khoa học, những luận lý duy lý, rót thêm vào thì nước chỉ tràn ra ngoài thôi. Hơn thế nữa, thứ nước cũ và thứ nước mới lại khác nhau, đối kháng nhau không thể hòa với nhau.
Muốn được tiếp nhận được nước mới, phải đổ hết nước cũ, không để một chút cặn. Nhưng làm thế nào thực hiện được, dù có muốn đi nữa. Trong tôi không phải chỉ là nước trong ly, những trí thức luận lý, khoa học ấy đã tạo thành nhân cách tôi rồi.
Cái khó của người trí thức hiện nay đến với đạo Phật là như vậy.
Đối với các thế hệ trí thức trẻ tuổi còn khó hơn nữa. Các con, các cháu tôi sinh ra, lớn lên trong thời đại khoa học kỹ thuật độc tôn, bá chủ này lại càng khó tiếp nhận đạo Phật. Chỉ một chữ “từ bi”, một chữ “nhẫn” đã gây chúng một sự phản đối kịch liệt. Chúng nhất quyết khẳng định - xin lỗi các vị - ấy là một triết lý chủ bại, đưa đến tàn lụi, diệt vong. Chỉ khoa học kỹ thuật, kinh tế mới cứu nhân độ thế được thôi. Quả thật, cái ý thức hệ của lớp trẻ nói chung bây giờ là như vậy. Nói sao với họ?
Tôi thấy không phải chỉ mới gần đây, mà đã từ nhiều năm qua, có những xu hướng hiện đại hóa Phật Giáo, cả về nôi dung tư tưởng và phương pháp giáo dục.
Cập nhật hóa, thích ứng, hòa nhập vốn là quy luật của tiến hóa. Đối tượng là những con người cụ thể, những con người ngày nay, Phật Giáo cũng phải nói với họ bằng ngôn ngữ ngày nay, không thể nào khác.
Nhưng tôi có sự cảm nhận, chưa thật chính xác, về mấy vấn đề cần suy nghĩ.
Một là, tôi được đọc, cũng ít thôi và chưa kỹ, một số sách của phương Tây, của phương Đông, của Việt Nam, trong đó có cả Thiền Luận nổi tiếng của Suzuki, tôi thấy có những điều cốt lõi, tinh túy của đạo Phật bị giản lược đi. Phải chăng vì những điều ấy xa lạ, xa vời, khó cảm thụ đối với người đời nay. Nhưng, như thế có đúng với chân diện mạo của đạo Phật không? Tôi không đủ tư cách và trình độ để trả lời, xin đề đạt câu hỏi đến các vị.
Hai là như trên đã nói, nói đạo là nói với từng con người cụ thể, trong những hoàn cảnh cụ thể, ở vào những thời đại cụ thể, thuộc những vùng cụ thể, những nền văn hóa cụ thể, những dân tộc cụ thể. Cho nên dường như có nhiều sự dị biệt, thậm chí đi đến chỗ đối nghịch. Cái gốc thì là một, những cành nhánh thì cành là cành bống, cành đông, cành tây, cành năm, cành bắc, càng lên cao càng lên ngọn càng rậm rạp, đương nhiên như thế là phát triển và cây càng cao bóng càng cả, nhưng liệu tất cả có phải từ gốc mà ra, hay có khi là tầm gửi sống nhờ vào cây. Không phải cây, rồi lấn cành, có thể đến một lúc nào đó trông cây thì xum xuê, nhưng phần lớn chỉ là tầm gửi, lúc ấy sẽ nói thế nào. Tôi mạo muội suy luận như vậy, có gì thất thố mong quý vị lượng thứ, chỉ là có sự băn khoăn muốn xin lời trấn an của các vị đó thôi.
Ba là, từ nhiều thế kỷ qua, nói ngay ở Việt Nam thôi, đạo Phật đã bị các hệ triết học, các hệ tư tưởng khác tấn công, phê phán (thí dụ các nho gia xưa và các nhà Tây học sau này v.v...). Tất nhiên các nhà Phật học phải trả lời, phải tranh luận. Theo lô gich học thì trả lời tức là đã chấp nhận cách đặt vấn đề của người ta, tranh luận tức là phải dùng lý luận của người ta để phản bác lại, và như thế là đạo Phật đã dời khỏi chỗ đứng của mình, từ bỏ phương pháp đặc thù của mình (tôi nói rõ: trong những trường hợp trả lời, tranh luận) và tự đặt vào thế chống đỡ, và nếu được phép, các vị không quở trách, tôi xin nói đạo Phật đã xa vào kế dụ địch, như thế có bất lợi chăng? Tôi nghĩ đến một câu tục ngữ của dân gian rất chất phác nhưng cũng rất sâu sắc: “Phật ở trên tòa, khi nào gà dám mổ mắt”. Cho nên, theo ý riêng của tôi, Phật Giáo không cần trả lời, tranh luận.
Bốn là thời đại hiện nay, khoa học kỹ thuật được một thế lực áp đảo, lên ngôi bá chủ. Tự nhiên tất cả những hoạt động ý thức khác tự thấy muốn tồn tại phải xin làm chư hầu. Bất cứ lĩnh vực nào khoa học cũng xâm nhập, bất cứ cái gì cũng phải được giải thích bằng khoa học thì mới có sự thuyết phục. Khoa học là chân lý duy nhất, tuyệt đối. Đạo đức, Văn học, Nghệ thuật v.v... và cả tôn giáo nữa cũng đều tự biện hộ bằng khoa học, tự phát huy bằng phương pháp khoa học.
Như thế là sai. Mỗi hoạt động tinh thần đều nhằm đáp ứng một trong nhiều nhu cầu của con người, chúng có định vị rõ ràng của chúng trong bộ nào, chúng có phương thức vận động đặc thù của chúng. Khoa học không phải là vạn năng, mà có giới hạn của nó, chí ít thì hiện nay nó chưa đủ sức giải đáp được mọi vấn đề cuộc sống của con người đặt ra.
Thế kỷ trước, nhà triết học thực nghiệm Auguste Comte đã tuyên bố chủ quan và bồng bột: triết học giải phóng nhân loại khỏi những sự khủng khiếp của tôn giáo, khoa học xác thực, đề ra phương pháp thực nghiệm đã vượt qua sự hiểu biết triết học. Chính do vượt từ thời đại này lên thời đại khác (tôn giáo, khoa học, siêu hình) mà nhân loại tiến lên.
Chính các luận điệu ấy, nổi tiếng chừng vài ba chục năm đã bị vượt. Khoa học hiện nay phát triển cao hơn chính Auguste Comte nhiều, đã tỏ ra biết điều và khiêm tốn hơn nhiều.
Các quan niệm tôn giáo là di sản của thời kỳ mông muội càng sớm thanh toán càng tốt đã bị bác bỏ. Kết luận được đông đảo các nhà khoa học tán thành là tôn giáo rất cần, ít nhất cho sự định hướng phát triển văn hóa nhân loại và điều hòa những sự quá khích. Lịch sử đã chứng minh điều đó và điều đó vẫn đúng trong tương lai.
Tôi đã có lần nghe giáo sư Viện sĩ Trần Đại Nghĩa, một nhà khoa học kỹ thuật lớn, hơn nữa một nhà khoa học quân sự nổi tiếng nói: Coi như khoa học kỹ thuật ngày nay có một khả năng rất lớn, làm gì cũng được, nhưng nói Cách mạng Khoa học kỹ thuật thì khoa học phải được hiểu là khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học nhân văn và trước hết là triết học  và mỹ học. Người ta vẫn phải biết ý nghĩa của việc làm và làm gì thì cũng nhằm mục đích cho nhân loại sống đẹp. Cho nên khoa học kỹ thuật phải được hướng dẫn bởi triết học và mỹ học.
Ý kiến thật sâu sắc, và chúng ta có thể nói thêm: Và tôn giáo, vì nhân loại cần có niềm tin vào cải thiện. Như thế cổ xe tam mã Chân-Thiện-Mỹ dẫn nhân loại đi lên.

Đề một bài thơ về “Kinh Viên Giác”
Biết rằng mọi tướng thảy đều hư
Nếu trụ vô dư vướng hữu dư
Lời nói quên lời liền liễu ngộ
Trong mơ kể mộng chất thêm mơ
Hoa không muốn quả sao thành quả
Ánh nắng đơm ngư há được ngư
Nhiếp động là Thiền Thiền lại động
Không Thiền chẳng động ấy như như.
Phật lịch 2543-1999 Kỷ Mão
Sa Môn Thích Thanh Kiểm dịch

Giáo sư Minh Chi
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế.
Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
Vì vậy, khi suy nghĩ và nói tới khoảng cách đó qua các sự kiện thực tế, tôi không có mục đích gì khác là tự nhắc nhủ mình và nhắc nhủ mọi người luôn luôn có ý thức về khoảng cách đó và phấn đấu hết sức mình để thu hẹp khoảng cách đó.
Chính với tinh thần và thái độ như vậy mà tôi xin có một vài suy nghĩ về một sự đổi mới phương pháp, hình thức và nội dung của giáo dục Phật Giáo trong thời đại hiện nay.
1. Đổi mới về Hình Thức và Phương Pháp Giáo Dục Phật Giáo:
a. Trong giáo dục Phật Giáo, thân giáo là quan trọng hàng đầu.
Điều này ai cũng biết cho nên không cần nói nhiều. Cái khó là chúng ta không làm, không muốn làm hay không làm được.
Tôi cho rằng, một trong những nguyên nhân khiến cho đạo không được truyền bá được vào đời một cách rộng rãi, khiến cho giáo dục Phật Giáo có hiệu quả hạn chế là vì chúng ta coi nhẹ thân giáo, tức là những người làm chức năng giáo dục Phật Giáo, phải thực hành từ đó gợi cho người khác thực hành hàng ngày, hàng giây phút những giá trị cao cả của đạo Phật trong cuộc sống của mình.
b. Mở rộng đội ngũ giáo dục.
Cho đến nay, chúng ta thường hạn chế số người làm chức năng giáo dục trong Tăng sĩ, và giờ giáo dục Phật Giáo trong các buổi thuyết pháp hay là lên lớp ở các trường Phật học Trung cấp và Cao cấp. Một quan điểm như vậy làm giảm sút hiệu quả của giáo dục Phật Giáo rất nhiều. Tất cả mọi người không kể là xuất gia hay tại gia, một khi đã tin vào chân lý của những giá trị triết lý đạo đức của đạo Phật và sống theo đúng những giá trị đó, đều mặc nhiên trở thành những nhà giáo dục Phật Giáo, bằng thân giáo, bằng tư tưởng, hành vi và lời nói của mình. Mọi người hãy có ý thức đầy đủ về điều này, và không nên nghe những người nói rằng truyền giáo dục thì phải có văn bằng, học vị, học hàm phải nói cho hùng hồn, điệu bộ cho oai vệ. Suy nghĩ như vậy sẽ lầm to và rất có hại cho sự nghiệp truyền bá của đạo Phật.
Trần Thái Tông, một ông vua Phật tử của đời Trần, đã viết trong Khóa Hư Lục rằng:
“Mặc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt xuất gia tại gia, bất câu Tăng tục, chỉ yếu biện tâm, bản vô nam nữ, hà tu trước tướng”. (Không phân biệt là sống giữa đời hay sống ẩn dật trong rừng, không phân biệt tại gia hay xuất gia. Tăng hay tục chỉ cốt biện tâm. Vốn không nam nữ, sao lại còn chấp tướng?)
Có thể nói đạo ý bình đẳng của Phật không có phân biệt đối đãi xuất gia và tại gia, nam và nữ, già và trẻ. Tất cả mọi người đều có mầm giác ngộ sẵn có ở trong mình, tức Phật tánh, cho nên đều có thể thành Phật. Đạo lý bình đẳng này thấy rõ trong một số Kinh Đại Thừa như Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man đã được dịch ra tiếng Việt. Duy Ma Cật là một Trưởng lão có gia đình, nhưng trình độ giác ngộ của ông ngang với Bồ Tát Văn Thù. Phu nhân Thắng Ma cũng có một vị trí cao tương tự. Trong Kinh Pháp Hoa ở phẩm 26, một Long Nữ mới 8 tuổi, nhờ nghe Ngài Văn Thù thuyết pháp mà trở thành Đại Bồ Tát, và trong nháy mắt dùng thần thông biến ngay thành nam giới rồi thành Phật. Những truyện như vậy có thể không được Phật Giáo Nam tông chấp nhận, nhưng đứng về tinh thần mà nói, chúng nói lên được truyền thống bình đẳng và phá chấp của đạo Phật, và truyền thống này có ngay từ thời đức Phật còn tại thế.
Phật giáo Việt Nam từng có Ni sư Diệu Nhân đời Lý là một Thiền sư nổi tiếng thuộc dòng Thiền Tỳ Ny Đa Lưu Chi, có Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều là những cư sĩ và là nhà Phật học xuất sắc đời Trần. Học trò của hai vị này gồm cả Tăng sĩ và cư sĩ. Một học trò xuất sắc của Tuệ Trung chính là Trần Nhân Tông, là Tổ thứ nhất của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Một học trò thứ hai của Tuệ Trung là Pháp Loa, là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm và là người đứng ra san định bản thảo Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, đã được cư sĩ Trúc Thiên dịch ra Việt văn. Trong thời hiện đại, chúng ta có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thẩm, là một nhà Phật học lớn, nhiều Tăng sĩ vốn là học trò của ông, nay giữ nhiều vị trí chủ chốt trong Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Ở nước Phật Giáo nào cũng vậy, cư sĩ bao giờ cũng chiếm số đông, họ lại là người có kiến thức thế tục khá rộng, nếu họ có thêm kiến thức nội điển nữa thì họ sẽ trở thành những nhà giáo dục Phật Giáo, những nhà truyền giáo rất tốt, rất có hiệu quả. Tăng sĩ vốn số lượng ít hơn, tất nhiên cũng làm chức năng giáo dục và truyền giáo, nhưng trước hết họ là những người duy trì kỷ cương xuất thế của đạo, và điều này cũng rất quan trọng trong cuộc sống văn minh vật chất của thế giới hiện nay. Nói tóm lại, phải thu hút rộng rãi tầng lớp cư sĩ vào đội ngũ giáo dục và truyền giáo của đạo Phật. Đó là một trong những biện pháp chủ chốt để rút ngắn lại khoảng cách giữa đạo Phật lý thuyết và đạo Phật trong thực tế, trong đời sống.
c. Một vấn đề mang tính cấp thời là dùng rộng rãi tiếng dân tộc, tức Tiếng Việt, trong công tác giáo dục và truyền giáo, bớt dùng chữ Hán, nhất là đối với các kinh Nhật Tụng. Các bản dịch của Đại Tạng kinh Việt Nam phải được nhuận văn thế nào hoặc đông đảo Phật tử đọc và hiểu được, và áp dụng được nội dung và đời sống hàng ngày, vấn đề này quá rõ cho nên tôi không nói nhiều.
II. Giáo dục hướng nội và đặc biệt coi trọng môn Duy Thức học
Về nội dung giáo dục, phải rất chú trọng môn Tâm lý học Phật Giáo, tức là môn Duy thức học. Cho đến nay ở các nước phát triển của phương Tây, người ta chú trọng nghiên cứu thế giới bên ngoài  hơn là nội tâm con người. Nói thế giới bên ngoài bao gồm cả xã hội và thiên nhiên. Do đó mà các ngành Khoa học tự nhiên ở phương Tây rất phát triển, tạo ra nhiều thành tựu thần kỳ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ, dẫn tới một sự tăng trưởng vũ bão của lực lượng sản xuất. Thành công đó của khoa học kỹ thuật phương Tây không thể phủ nhận được. Thế nhưng trong các ngành Khoa học xã hội thì chỉ có ngành Xã hội học (Sociology) là phát triển tương đối. Ngay Mác, khi dẫn chứng một điểm trong Luận cương của Phơ Bách cũng khẳng định con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Nhưng trên thực tế, theo quan điểm của triết học và tôn giáo phương Đông, đặc biệt là Phật Giáo thì nội tâm con người là cả một thế giới mênh mông sâu thẳm, mà mãi tới thế kỷ XX, Sigmund Freud mới sơ bộ phát hiện ra, và trên cơ sở đó xây dựng môn Phân tâm học nổi tiếng của ông.
Chúng ta biết là để trình bày môn Phân tâm học, một môn học rất mới mẻ đối với người phương Tây, Freud đả phải sáng tạo ra một pho ngữ vựng Phân tâm học với những danh từ, động từ và hình dung từ rất lạ tai v.v... Thế nhưng môn Tâm lý học Phật Giáo, cụ thể là môn Duy Thức học Phật Giáo, so với môn Phân tâm học của Freud, đã phân tích nội tâm của con người sâu sắc và chi tiết hơn nhiều, khiến cho những học trò danh tiếng của Freud như Formn, Carl Jung đã theo nghiên cứu Phật học, và trở thành môn đệ của Thiền sư Nhật Bản Suzuki. (Xem Thiền và Phân tâm học - các bản Anh và Việt văn).
Vì không chú trọng đời sống nội tâm, cho nên ở các nước công nghiệp rất phát triển của phương Tây, con người có thể rất nhiều tiền và đầy đủ mọi tiện nghi của đời sống nhưng lại thiếu đi sự bình an của nội tâm và do đó cũng ít có hạnh phúc. Một nhà báo người Mỹ nói: “Về vật lý học, chúng ta đang ở thời đại nguyên tử; về mặt tâm lý học, chúng ta đang ở thời đại đồ đá”. Một hình ảnh khác có sức gợi cảm mạnh hơn, là hình ảnh của một con người, một chân thì buộc vào chiếc máy bay phản lực, còn chân kia thì buộc vào một chiếc xe bò kéo.
Sự mất thăng bằng giữa Tâm lý học (hết sức lạc hậu) và các môn Khoa học tự nhiên, đặc biệt là Vật lý học (hết sức phát triển), giữa nội tâm tán loạn hôn mê vì dục vọng và ngoại cảnh đầy cám dỗ, kích thích và diễn biến cực kỳ nhanh chóng (thời đại hiện nay là thời đại của tốc độ) là nguyên nhân của bao nhiêu tai nạn khủng khiếp, bao nhiêu hiện tượng bạo lực, bạo hành khủng bố thật không sao hiểu được, đang diễn ra hiện nay, có thể nói là hàng ngày. Những chuyện giết người hàng loạt một cách dã man, không phải chỉ xảy ra ở những nước lạc hậu, kém văn hóa như ở Campuchia thời Pôn Pốt, ở Rwanda và Burundi tại Châu Phi hiện nay mà ngay ở trung tâm Châu Âu, ở các nước Nam Tư cũ, ở Nga tại Tchesnia, ở Mỹ tại Okalahoma, và ở Nhật trong các vụ đầu độc dưới tàu điện ngầm v.v...
Duy Thức và Trung Quán là hai đỉnh cao của Phật Giáo Đại Thừa. Hai môn học này bổ sung cho nhau thay vì mâu thuẫn chống đối với nhau như một vài người lầm tưởng. Nếu môn học Trung Quán chú ý nhiều tới sự phân tích logic và tư duy biện chứng, do đó rất thích hợp với các phương pháp khoa học hiện đại, thì môn Duy Thức học lại chú trọng phân tích nội tâm, kết hợp với t tập Thiền định. Không phải không có lý do mà Tông Duy Thức còn mang tên Du Già tông. Du Già ha Yoga là một tên gọi khác của Thiền định, nhưng ý nghĩa của nó có phần rộng hơn.
Giảng môn Duy Thức mà không biết kết hợp với tu tập thiền định thì sẽ biến thành mnô học có tính kinh viện và sách vở. Chính trong những giờ phút ngồi thiền và thực hành thiền quán hay nội quán mà hành giả thấy mọi sự kiện ngoại cảnh và nội tâm một cách minh bạch rõ ràng, đúng như chúng tồn tại.
III. Giáo dục về tinh thần và phương pháp nghiên cứu khoa học, đề cao tính lý trí trong giáo dục Phật Giáo, chống mọi hình thức giáo điều, cũng như mê tín, cuồng tín.
Thời đại hiện nay là thời đại của khoa học và dân chủ. Phương pháp giáo dục Phật Giáo, nếu đi ngược lại tinh thần khoa học và dân chủ, nhất định sẽ kém hiệu quả, thậm chí đem lại hậu quả ngược với ý muốn dự định của chúng ta. Nghĩa là tuyên truyền đạo Phật mà trở lại phản tuyên truyền đạo Phật, biến đạo Phật thành một trò cười cho số đông.
Gần đây có người thường nhấn mạnh tính phi lý, tính trái thường của những ngữ Thiền. Đúng là có một số câu nói nhà Thiền hay là có những hành vi của một số Thiền sư là khó hiểu, thậm chí không thể hiểu được, đại loạì như câu của Thiền Phái Lâm Tế: “Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ” v.v... Tôi không dám phê bình những câu, những lời Thiền như vậy, mà tôi tin là chỉ có giá trị giáo dục nhất định, trong những trường hợp cá biệt nhất định giữa Thiền sư và Thiền sinh, giữa thầy và trò. Tuy nhiên, những câu kiểu như vậy không có một giá trị giáo dục phổ biến.
Đạo Phật khác với các tôn giáo Thần khải, không bao giờ phủ định lý trí như là chuẩn mực đáng tin cậy của Chân lý. Con người là một động vật có lý trí. Tất nhiên con người còn có tình cảm và ý chí. Nhưng ở nơi con người tình cảm và ý chí phải được soi sáng và hướng dẫn bởi lý trí. Với lý trí, con người phải học lập luận một cách logic chặt chẽ, sử dụng thông thạo các thao tác như suy lý diễn dịch và quy nạp. Do đó, môn Logic học Phật Giáo (Nhân Minh học) phải được đưa vào dạy ở các trường Phật học Trung cấp và Cao cấp). Đó là điều hiện nay chúng ta chưa làm, thậm chí ngay cả đối với trường Phật học Cao cấp, chứ đừng nói gì ở các trường Trung cấp. Khi nói và viết, khi suy tư, con người phải biết lập luận một cách logic, nghĩa là có lý có lẽ, chứ không thể suy nghĩ lung tung, viết và nói lung tung, thậm chí cả trong khi giảng dạy.
Nhà bác học Einstein nói: “Tôn giáo mà không có khoa học sẽ là tôn giáo mù, khoa học mà không có tôn giáo thì sẽ là khoa học què”.
Khi Einstein nói tôn giáo mà không có khoa học là tôn giáo mù, theo tôi là Einstein muốn nói tới tôn giáo không phải chỉ là lĩnh vực của đức tin thuần tuý, yêu cầu không được bàn cãi, suy tư , hoài nghi. Tuyệt đối không phải như vậy. Chính kiểu lập luận như vậy biến tín đồ thành một đám người mù, nhắm mắt làm theo chỉ thị của những người tự xưng là Đạo sư, hay là Vô Thượng sư của họ, nhưng trên thực tế đôi khi chỉ là những phần tử cơ hội, có thể không từ một tội ác nào mà không làm, như Đạo sư của Giáo pháp Aum ở Nhật, đã cho đầu độc hàng loạt người vô tội, hay là như một số giáo phái ở Mỹ, tổ chức những vụ tập sát tập thể v.v...
Đạo Phật ngay từ đầu đề cao vai trò của trí tuệ thay vì niềm tin mù quáng, Phật từng nói tiếp thu giáo pháp của Phật mà không hiểu cũng không khác gì một cái thìa đựng mật, nhưng không thể biết mùi vị của mật là gì, Phật lại nói “Chớ có tiếp thu giáo pháp của ta chỉ vì kính nể Ta, trái lại hãy thử thách nó như là lửa thử vàng vậy”.
Đạo Phật không bao giờ tuyên bố vô lý như thế này: “Điều này có thể tin được, vì rằng quá ư vô lý, điều này là đúng vì không có khả năng xảy ra”. Những điều đó logic học Phật Giáo, tức Nhân minh học, gọi là thế gian tương vi. Đạo Phật khuyến khích mọi người hãy lập luận  một cách có logic, dựa trên những sự kiện thực tế của cuộc sống hàng ngày. Một lần Phật nói với một người Bà la môn: “Có những Bà la môn và Sa môn nói rằng ngày là đêm và đêm là ngày, nhưng Ta, này Bà la môn, Ta nói đêm là đêm và ngày là ngày”.
Hiện nay có một số ít người, kể cả một số trí thức, thích kể những chuyện lạ về cõi âm, và cũng thích bàn về những quyền năng siêu nhiên như bay trên không, đi trên nước, một thân biến thành nhiều thân, hô phong hoán vũ, sai khiến qủy thần.
Trong phương pháp giáo dục Phật Giáo, chúng ta xử lý những vấn đề đó như thế nào?
Trước hết đạo Phật thừa nhận có nhiều cõi sống khác nhau với cõi người. Có những cõi sống cao cấp hơn cõi người, mà sách Phật thường gọi chung là chư Thiên. Có những cõi Trời ở xa, thậm chí rất xa cõi Người trên trái đất này, nhưng cũng có những cõi Trời ở tương đối gần. Lại có những cõi sống thấp hơn cõi Người, như cõi sống của loài vật, cõi Qủy đói và cõi Địa ngục. Đạo Phật cũng thừa nhận con người sau khi chết, mang một cái thân tạm thời gọi là thân Trung ấm, làm bằng loại vật chất tế nhị, cho nên mắt người không thấy được. Các thân Trung ấm, sống tối đa 49 ngày, rồi theo nghiệp mà tái sanh hoặc trở lại làm người hay là qua một cõi khác hoặc thấp hơn hoặc cao hơn cõi Người. Đó là một mặt của vấn đề. Tức là đạo Phật thừa nhận có những chúng sinh khác với con người, những cõi sống khác vói cõi Người. Còn gọi họ, và cõi sống của họ bằng tên gọi gì thì chỉ là vấn đề quy ước mà thôi.
Nhưng một số vấn đề khác mà đạo Phật rất nhấn mạnh, chúng sinh ở các cõi sống khác nhau, do nghiệp khác nhau, giác quan khác nhau, cho nên cũng không có quan hệ trực tiếp với nhau gì (trong các cõi sống khác, có lẽ chỉ có loài vật [animal] là có quan hệ trực tiếp với cõi người hơn cả). Phúc hay họa đến cho con người là do con người tạo nghiệp tương xứng, chứ không phải do quỷ thần. Cho nên, điều người phải làm, không phải là cúng bái qủy thần để được ban phước hay tránh họa. Họa hay phúc đều do người chứ không phải do qủy thần. Nếu chúng ta hàng ngày làm điều thiện, nói thiện, nghĩ thiện, nghĩa là thường xuyên làm việc thiện thì chính quỷ thần cũng kính nể ta, bảo vệ ta, còn nếu chúng ta hàng ngày làm ác, nói ác, nghĩ ác, thì chúng ta sẽ mang họa, không chóng thì chày, không có quỷ thần nào cứu vớt chúng ta được. Đó là thuyết Nghiệp của đạo Phật, một thuyết rất khoa học và công bằng.
Theo tinh thần của đạo Phật, thì không những quỷ thần không thể can thiệp vào quy luật nghiệp báo, mà các con người đối đãi với nhau cũng vậy. Người thiện thật sự sống thiện, nay cũng như xưa thì người ác muốn hại cũng không làm gì được. Người ác, muốn hại người thiện cũng như kẻ ngu ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt, hay là đi ngược gió mà tung bụi ... người thiện sống giữa đời ác độc, cũng như một bàn tay không thương tích nhúng vào một bát thuốc độc, không có quan hệ gì hết.
Còn về vấn đề thần thông và quyền năng siêu nhiên, đạo Phật có thể đó là sản phẩm của công phu thiền định, là một cái gì tự nhiên đến với người tu tập thiền định, trong đạo Phật cũng như ở các đạo khác. Thế nhưng trong các loại thần thông, thì loại thần thông mà Phật đề cao nhất là “Giáo hóa thần thông”, hay là nếu nói theo từ ngữ thông thường là “giáo dục thần thông”. Phật nói đó mới là thần thông thực sự, chuyển hóa con người ác thành con người thiện, con người ngu thành con người có trí, người dữ thành người hiền ... Còn các loại thần thông khác như bay trên không, đi trên nước, chui xuống đất ... đức Phật đều xem như những trò ảo thuật mà đức Phật khuyên học trò mình không nên làm.
Đạo Phật là đạo của trí tuệ, của tình thương rộng lớn. Đạo Phật đem lại cho mọi người nhiệt tình sống cuộc sống đạo đức, sống cuộc sống tâm linh cao cả, cuộc sống trong sáng, thanh tịnh, đầy lòng bao dung ... Đạo Phật, cũng như bản thân đức Phật, luôn khuyên mọi người hãy tin ở sức mình, hãy tin ở mình, hãy tự thắp đuốc lên mà đi ... Chớ có vội tin vì đó là truyền thống do nhiều thế hệ để lại, chớ tin vì đó là tin đồn, được nhiều người nói tới, chớ có tin vì đó là điều đã viết thành sách bởi một nhà hiền triết cổ xưa, chớ có tin vì đó là điều anh thích thú, cho là tân kỳ, và nghĩ rằng đó phải là do thần hay một vật kỳ diệu nào truyền đạt lại. Chỉ sau khi quan sát và phân tích, thấy rằng đó là điều hợp với lý trí, đem lại sự tốt lành, có lợi cho bản thân anh và cho mọi người, thì hãy chấp nhận điều đó và sống theo điều đó” (Tăng Chi I, Kinh Kalama - Các vị ở Kesaputta).
Đó quả là một lời dạy đầy minh triết. Nếu tất cả mọi người đều vâng theo lời dạy minh triết đó, sống tỉnh táo, luôn quan sát và phân tích, dựa vững vàng vào các dữ kiện thực tế của đời sống, kể cả đời sống nội tâm, thì lịch sử nhân loại, kể cả quá khứ và hiện tại, sẽ giảm bớt bao nhiêu tội ác, tang tóc và đau thương, bao nhiêu máu bớt chảy, bao nhiêu nước mắt đỡ tuôn rơi, bao nhiêu quả tim đỡ tan nát ...
Có người nói đạo Phật là tôn giáo của niềm tin nhưng không phải là niêm tin ở Thượng đế mà là niềm tin ở con người, ở lý trí của con người biết phán xét phải trái, ở trái tim của con người biết yêu thương đồng loại, ở ý chí của con người biết vương lên cái tốt cái thiện.
Đạo Phật là như vậy, và toàn bộ giáo dục Phật Giáo trong thời hiện đại phải đổi mới như vậy, nhằm mục đích như vậy, theo hướng như vậy. Đó sẽ là đạo Phật của tương lai, của thế kể XXI.


TRONG GIỚI LUẬT PHẬT GIÁO
Giáo sư Cao Huy Thuần
... Tôi vừa nói: Hòa có mặt tích cực, có mặt tiêu cực.
Hòa có khi làm nhũn cá tính, không phát huy được sáng kiến, trốn tránh trách nhiệm. lẫn vào đám đông. Tôi ở Pháp cho nên biết rằng mục đích giáo dục ở Tây phương là phát huy sáng kiến, đặc tính cá nhân, dám nói khác, làm khác. Tôi cũng biết rằng quy luật cạnh tranh là đạp lên chân nhau mà bước. Thú thực, đồng nghiệp của tôi bước lên chân tôi có khi nát cả chân. Đây quả là một vấn đề xung khắc văn hóa Đông Tây. Chính tôi không biết phải dạy con tôi thế nào.
Trong một tạp chí ăn khách ở Pháp (Express, 30-7/5-8-1998) tôi có đọc một bài phỏng vấn một vị Tăng Tây Tạng có tiếng, trí thức, đồng thời cũng là một Giáo sư về văn hóa Tây Tạng ở đại học Pháp: Dagpo Rinpoche. Câu hỏi mở đầu với chữ Khổ:
- Các tôn giáo Ki tô gán cho sự khổ một giá trị cứu rỗi. Người ta giải thích rằng khổ giúp ta đạt đến một tương lai tốt hơn.
Trả lời:
- Phật Giáo không nghĩ như vậy. Đối với Phật Giáo, khổ không bao giờ được như hoặc được trình bày như một giá tri. Khổ là phải diệt nó. Tất nhiên, phải thực tế: ai cũng nằm dưới luật Khổ. Thế thì thay vì để cho khổ dẫm nát, ta hãy dùng khổ để vươn lên; dùng khổ như là một khí cụ để học cách hiểu mình hơn và hiểu người khác hơn. Sửa đổi bên trong của mình toàn vẹn, lìa ra khỏi khổ, điều đó rất cần thiết để phát triển từ bi và có lẽ, sau đó, một thái độ vị tha: lúc nào cũng nhường phần thắng cho người khác và hạ mình xuống hàng thứ hai. Người khác đứng đầu, ưu tiên.
Vị Tăng này là giáo sư, và tất nhiên phải lên trật, lên ngạch, nghĩa là phải dẫm lên chân của người khác chứ!
Do đó mà có câu hỏi tiếp theo:
- Đồng nghiệp của ông muốn chiếm chỗ của ông. Ông nói với người ấy thế này chăng: “O.K, tôi xuống hàng thứ hai? Có thể nào dung hòa từ bi với cạnh tranh?
Trả lời:
- Cạnh tranh là cái mặt đối chọi lại với những gì tôi vừa nói, bởi vì dựa trên trên quyền lợi cá nhân, nhưng không phải vì, về mặt tâm linh, tôi nhường chỗ thắng cho người khác mà tôi nhất thiết phải biến mình thành Thánh tử đạo và để cho kẻ khác dẫm chân! Hy sinh về mặt vật chất cho người khác, điều đó chẳng đem lợi lộc gì đến cho người khác cả. Thật ra, điều mà ta cần thay đổi là cách suy nghĩ của ta: trong trường hợp nghề nghiệp chẳng hạn, thay vì trước đây chúng ta tranh giành nhau chỉ vì mục tiêu vị kỷ, bây giờ hãy thử tập hành động vì lợi ích toàn thể và làm theo những quy tắc đạo đức.
Tôi nghĩ rằng vị Tăng đó sống thực như vậy. Và tôi phục. Vì sao? Vì vị Tăng sống với tục mà vẫn sống Đạo được như thường, là chuyện quá khó.
Giới luật Phật Giáo là giới luật của Tăng và giữa Tăng với Tăng, nghĩa là cùng ở trong một đoàn thể thuần nhất, cùng Đạo, cùng chia sẻ những giá trị giống nhau, cùng tu, cùng nhằm mục đích như nhau. Trong một đoàn thể thần nhất như vậy, chữ Hòa sẽ không còn mặt tiêu cực nữa, mà chỉ còn mặt tích cực. Nói như hiến pháp của Vua Thánh Đức, trong một đoàn thể thuần nhất như vậy. Hòa quả là có địa vị tối thượng. Không có Hòa thì không làm gì được hết.
Tôi đọc quyển Cương Yếu Giới Luật của Hòa thượng Thiện Siêu trang 69 nói về Lục Hòa, trang 84 và trước đó nói về phá Hòa hợp Tăng, trang 107 về Giới trường, trang, 137, 138 về Kiết ma phi tướng. Hòa thượng nhấn mạnh: Hòa hợp triệt để, chứ không phải chỉ là thiểu số phục tùng đa số.
Trang 132: Thuyết giới tự tứ cốt là Hòa, nếu không Hòa thì làm sao mà thuyết! Và Tăng Hòa ở đây là gì? Là tránh bốn việc: ngôn tránh, mích tránh, phạm tránh và sự tránh.
Mỗi một việc ngôn tránh là vĩ đại rồi. Miệng mồm người ta vốn là đầu mối của bất hòa.
Ở trang 138, cũng vẫn nói về Kiết ma phi tướng, nói “hòa hợp triệt để”, cũng chưa đủ, Hòa thượng còn thêm: “Hòa hợp triệt để 100% mới hợp lệ”. Cho nên, Hòa là một trong bảy yếu tố để một chúng Tỳ kheo hưng thịnh. Thế nào là một chúng Tỳ kheo hưng thịnh và một chúng Tỳ kheo thối đọa? Tôi đọc Tăng Chi Bộ Kinh do Thượng tọa Chơn Thiện trích dẫn (trang 438- Phật học khái luận): “Một chúng Tỳ kheo hưng thịnh khi nào thực hiện được 7 điều:
Điều 1: Chúng Tỳ kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo.
Điều 2: Tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong niệm đoàn kết, và làm việc Tăng trong niệm đoàn kết”.
Nói chữ hòa trong Phật Giáo có lẽ nói mãi không cùng. Trung đạo là gì, nếu không phải là hòa, không phải chỉ hòa với chung quanh mà còn hòa với chính chúng ta. Trong Tăng Chi Bộ Kinh mà tôi vừa trích, Phật dạy một cư sĩ như thế này, khi ông ấy hỏi làm thế nào để một cư sĩ tại gia sống hạnh phúc an lạc ngay trong hiện tại và hạnh phúc an lạc trong tương lai: “Này cư sĩ, có bốn pháp đưa đến hạnh phúc hiện tại, đó là: đầy đủ sự tháo vát, đầy đủ sự phòng hộ, làm bạn với thiện, sống thăng băng điều hòa”.
Thế nào là sống thăng bằng điều hòa? Không phung phí, không bủn xỉn.
Từ chuyện nhỏ nhặt thường tình đến chuyện triết lý cao xa, ở đâu cũng thấy chữ Hòa. Cho nên tôi phải nói dài.
Trích “Thượng đế, Thiên nhiên, Người, Tôi và Ta” Giáo sư Cao Huy Thuần, Đại học Amiens, Pháp.

CẢM NHẬN QUA QUÁ TRÌNH GIẢNG DẠY TĂNG NI SINH NĂM THỨ TƯ HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TC. HCM (^)
Giáo sư Trương Quang Dũng
Giảng viên môn Khoa Học Quản Lý
Khi được nhà trường phân công giảng dạy môn Khoa học quản lý cho Tăng Ni  sinh năm thứ 4-Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon, tôi đã có nhiều lo lắng bởi các học viên của lớp thật là đặc biệt và rất lạ lẫm đối với tôi. Tôi luôn suy nghĩ và tự hỏi rằng, liệu giữa người đứng lớp và người học trò có tìm được tiếng nói chung một số cách nhìn nhận, giải quyết những vấn đề cụ thể về công tác quản lý hay không? Nhưng rồi với trách nhiệm của một giảng viên và lòng tôn trọng đối với Ban Đại diện lớp học, với các học viên là các nhà tu hành đã làm cho tôi mạnh dạn và tự tin khi đứng trên bục giảng.
Qua những giờ lên lớp, trao đổi, tọa đàm, tiếp xúc với cá học viên cả trong và ngoài giờ học, qua quá trình hướng dẫn một số luận văn, tôi đã khám phá ra nhiều điều thú vị mới mẻ: Đó là những học viên thông minh, chăm chỉ, ham hiểu biết, vừa nghiêm túc trong học tập, vừa rất chan hòa, mẫu mực trong lối sống.
Điều làm tôi mừng nhất là qua thời gian học tập, giữa tôi và các học viên đã tìm được sự quan tâm chung: đó là kho tàng trí thức vô tận của nhân loại mà tôi và các học viên đều mong muốn khám phá. Đồng thời tôi cũng nhận thấy rằng: những gì tôi đã cố gắng đem lại cho các học viên của lớp học này có  lẽ còn ít ỏi so với những gì tôi thu nhận được, đó là sự tận tình chu đáo của Ban Đại diện lớp học, của đội ngũ nhân viên Văn phòng Học Viện, đó là không khí học tập nghiêm túc hào hứng, lòng say mê kiến thức của các học viên ... và lớn hơn tất cả, lớp học đã giúp tôi hiểu thêm những con người ở một môi trường mà trước đây tôi chưa có điều kiện hiểu hết.
Xin chân thành cảm ơn những thành viên Ban Đại diện lớp học và toàn thể các học viên, những người thực sự đã đem đến cho tôi một niềm hạnh phúc mới trong sự nghiệp giảng dạy của mình.
Saigon, tháng 05 năm 2001.

Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê
Trên thế giới về cách tán tụng có ba trường phái:
- Bắc Tông hay Đại thừa gồm có Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. Kinh văn bằng tiếng Phạn (Sanskrit) để nguyên tiếng Phạn, phiên âm ra bằng tiếng Trung Quốc, đọc theo cách phát âm của người Trung Quốc, thì gần giống âm tiếng Phạn, nhưng khi đọc chữ phiên âm theo cách đọc của mỗi nước Triều Tiên, Nhật Bản hay Việt Nam thì rất xa âm tiếng Phạn, như bài chú Vãng Sanh (Nam mô a di đà bà dạ v.v...) Có khi tiếng Phạn dịch ra tiếng Trung Quốc, viết lại bằng chữ Hán như A Di Đà kinh, Tâm kinh Bát Nhã v.v...
- Nam Tông hay Tiểu thừa gồm các nước Sri Lanka, (Tích Lan), Thái Lan, Cao Miên (Campuchia), Lào, Kinh chép bằng chữ Pàli, đọc theo âm Pàli, không dịch ra tiếng bổn xứ.
- Mật Tông (Tây Tạng, Mông Cổ) kinh gồm những mật ngôn đọc theo một giọng thật trầm.
Sau khi nghe qua ba cách tụng kinh, chúng ta thấy rằng cách tán tụng trong truyền thống Việt Nam đứng trong truyền thống Bắc Tông.
Sau khi nghe qua cách niệm “Nam mô A Di Đà Phật" trong các nước Đông Á, nghe qua vài bài tụng như chú Lăng Nghiêm, kệ Khai kinh v.v... chúng tôi có những nhận xét sơ bộ sau đây:
1.- Không có một thể nhạc Phật Giáo chung cho các nước Đông Á, như cách hát “chant grégorien” chung cho các nước Tây Âu, Pháp, Ý, Tây Ban Nha v.v... Lời kinh giống nhau nhưng nét nhạc của cách tụng, tán tuỳ mỗi nước, mỗi vùng mà thay đổi.
2.- Mặc dù đạo Phật thành lập từ Ấn Độ, mặc dù một số kinh chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Á, nét nhạc trong các bài tụng, bài tán trong truyền thống Việt Nam không chịu ảnh hưởng của Ấn Độ hay Trung Quốc.
3.- Trong nước Việt Nam, nét nhạc của các bài tụng, tán thay đổi tùy theo miền, theo vùng, mà thang âm, điệu thức dùng trong những bài tán, tụng rất gần thang âm điệu thức của tiếng hát ru, những điệu dân ca đặc biệt của mỗi vùng.
4.- Có hai điệu chính thức được dùng: điệu Thiền (như hơi nhạc, hơi hạ trong nhạc tài tử miền Nam) và điệu Ai. Điệu thay đổi tùy theo nội dung của bài tán.
Như bài tán “Dương chi tịnh thủy” ca ngợi Đức Quan Thế Âm không có chi buồn.
            “Dương chi tịnh thủy
            Biến sái tam thiên
            Tánh không bát đức lợi nhân thiên
            Pháp giới quảng tăng điên
            Diệt tội tiêu khiên
            Hỏa diệm hỏa hồng liên”.
Khi nước cam lộ được nhành dương liễu (từ Bồ Tát) rải xuống trần, một giọt biến thành ba ngàn giọt rửa sạch tội lỗi oan khiên. Núi lửa hóa thành bông sen hồng. Bài tán đó được tán theo điệu Thiền.
Nhưng khi tán bài tán Nhất điện” có những câu:
Thân hình bào ảnh tợ ngân sương. Mạng tợ ngân sương ...” Thân hình chúng ta như hạt sương trắng buổi sáng. Mạng chúng ta cũng mong manh như hạt sương buổi sáng. Nhớ tới cái mong manh của cuộc đời nên bài tán được tán theo điệu Ai.
Điệu thức này cũng tùy theo hoàn cảnh mà thay đổi.
Như kệ Khai kinh hay tụng kinh A Di Đà, trong chùa tụng khác, mà trong một đám tang tụng khác. Từ thực tế trên, có thể kết luận: Cách tán, tụng trong truyền thống Phật Giáo Việt Nam rất gần gới cách tán, tụng ở các nước trong phái Bắc tông.
Nhạc Phật Giáo Việt Nam bắt nguồn từ nhạc đầu tiên Việt Nam, mang hơi điệu nhạc dân gian, nhạc thính phòng, nhạc sân khấu và nhạc lễ trong cung đình Việt Nam.
VÀI ĐẶC TÍNH CỦA ÂM NHẠC PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
1) Âm nhạc Phật Giáo Việt Nam là một loại Lễ nhạc:
Nhạc đi đôi với Lễ, chỉ được tấu trong khi hành lễ, chớ không phải chỉ để nghe cho vui tai. Mỗi nét nhạc, mỗi bản nhạc đều có liên quan đến một bài kinh, hay một buổi lễ, mục đích để tạo một bầu không khí trang nghiêm, dẫn con người đi sâu vào cuộc sống tâm linh, để hiểu thấu nghĩa sâu xa của những câu kinh và thấm nhuần giáo lý.
Trong đời sống thường nhật tại các chùa, mỗi ngày thường có ba thời kinh: sáng từ 4 giờ đến 5 giờ, trưa cúng ngọ 12 giờ, và tối 6,7 giờ.
Mỗi lần đều có chuông báo chúng gọi Tăng Ni.
Mỗi thời đều có những bài tụng hay tán riêng.
Như trong thời sáng thì có kệ Dâng hương, chú Lăng Nghiêm, Thập chú, Bát Nhã, Tâm kinh, niệm danh hiệu Phật Thích Ca 108 lần, rồi Phát nguyện, Hồi hướng.
Trong thời tối, thiên về Tịnh độ, nên sau khi Dâng hương, tụng chú Vãng sanh, kinh Hồng Danh sám hối, kinh A Di Đà, chú Biến thực biến thủy, Phát nguyện, Tam tự quy y v.v...
Trong thời cúng Khai kinh, có bài tán Dương chi tịnh thủy, tân Khể thủ, tụng bài tựa Lăng Nghiêm, trì chú Phổ Âm, chú Đại Bi.
Ngoài các thời cúng trong chùa, còn có những lễ khác như Phật Đản (ngày sanh của đức Phật), Thành đạo (ngày đức Phật tìm được chân lý dưới gốc cây Bồ đề), Vu Lan (mùa báo hiếu), Chẩn tế cô hồn v.v...
Trong dân gian còn có những lễ Táng, Thinh linh, Tiến linh, Đề phan, Đề vị.
2) Nhạc Phật Giáo là một loại thanh nhạc. Khi nhạc chỉ để phụ cho lời tán, tụng.
Người Nhật có danh từ Shômyo, người Trung Quốc đọc ra Sheng ming, người Việt Nam đọc thành “Thanh minh”. Thanh là tiếng, minh là sáng, sự trong sáng của tiếng nói. Tiếng Phạn là Saddhavidya.
Trong các nước Đông Á có tụng và tán. Người Việt ngoài hai lối tụng, tán cơ bản, còn có niệm, đọc, hô, bạch, tụng, xướng, thinh, tán, niệm Phật niệm hương, đọc sớ, hô kệ, tụng kinh, xướng danh hiệu Phật, thinh linh, tán những bài ca ngợi công đức của chư Phật, Bồ Tát ...
Trong những lễ lớn, khí nhạc mới được dùng đến.
Mở đầu bằng chông trống Bát nhã. Thường thường người dự lễ tưởng rằng chuông trống đánh từng hồi. Chính chuông trống đánh theo số chữ trong bài kệ.
Bát nhã hội (3 lần: 3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Thỉnh Phật thượng đường (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Đại chúng đồng văn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Bát nhã âm (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Phổ nguyện pháp giới (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Đấng hữu tình (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Nhập Bát nhã (3 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Ba la mật môn (4 tiếng trống, 1 tiếng chuông)
Hồi chuông và trống luôn đến dứt.
Sau trống chuông bát nhã, dàn nhạc tấu bài Đăng đàn.
Tiếu nhạc tấu bài Long ngâm, hoặc Ngũ đối thượng.
Chuông gia trì, mõ gia trì và tang mở đầu cho bài tán Dương chi tịnh thủy (trong lễ khai kinh).
Trong lúc tán, nét nhạc theo câu kinh, nhạc công phải thuộc bài tán. Có khi nhạc tấu bài Lưu thủy thầy, tức là bản Lưu thủy đờn theo phong cách nhạc lễ.
NHỮNG ĐẶC TÍNH CỦA HAI CÁCH TÁN, TỤNG TRONG TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO VIỆT NAM
1) “Tụng” là đọc lớn, lớn hơn “đọc và “niệm”.
“Tán” là ca ngợi, khen tặng. Tiếng “tán” có thể to hơn tiếng “tụng”.
2) Thanh giọng được hệ thống hóa trong khuôn khổ của một quãng tám, trong bài “tụng” cũng như bài “tán”.
3) Thang âm của bài tụng, có thể 3,4 hoặc 5 (tam, tứ, hoặc ngũ cung). Thang âm trong các bài tán đều là ngũ cung.
4) Điệu thức ThiềnAi đều được dùng trong tụng hoặc tán và tùy nội dung bài kinh, theo địa phương, theo bối cảnh.
5) Nét nhạc trong các bài “tụng” tùy theo thanh giọng của những chữ trong câu kinh, và cũng tùy theo người tụng.
Nét nhạc trong bài tán thường cố định theo từng bài. Người tán không thể thay đổi nét nhạc.
6) Mỗi chữ trong câu kinh chỉ được thể hiện theo một âm trong bài tụng (Style sylabique).
Trong bài tán, một chữ có thể tán với nhiều âm (Style melismatique).
7) Âm vực thâu hẹp trong bài tụng, và mở rộng trong bài tán.
8) Trong bài tụng nhịp đều trường canh, mỗi chữ trùng với một tiếng mõ ...
Trong bài tán, nhịp phức tạp hơn. Chữ quan trọng trong câu kinh, kệ, thường được xướng theo nhịp ngoại. Tang, mõ đáng theo chu kỳ (rymth cyclique). Trống đánh theo đối điểm (contre point).
Có ba loại: tán rơi, tán xắp, tán trạo. Nhịp theo chu kỳ khác nhau.
Ngoài ra những cách “luyến, lẫy” được quy định rất cẩn thận.
Vì thời gian có hạn, nên chưa đề cập đến vấn đề nhạc cụ dùng trong các lễ. Bài bản của các dàn nhạc phụ họa cũng chưa kể hết.
KẾT LUẬN
Âm nhạc Phật Giáo Việt Nam là một phần của âm nhạc truyền thống Việt Nam, mang tính chất đặc thù của âm nhạc dân gian, âm nhạc thính phòng, và âm nhạc lễ Việt Nam.
Nét nhạc, điệu thức, tiết tấu trong âm nhạc Phật Giáo Việt Nam rất phong phú và tế nhị.
Nhạc mang tính chất thanh thản, nghiêm trang, đôi khi buồn man mác, mà không bi lụy.
Nhạc gợi một bầu không khí trang nghiêm trầm lặng, giúp cho người tụng kinh và người nghe kinh có thể tập trung tư tưởng vào nghĩa của lời kinh.
Cách tụng, tán trong Phật Giáo Việt Nam, ngày nay co xu hướng đi đến chỗ giản dị hóa. Trong khi tại các nước Đông Á khác, như Nhật Bản, Triều Tiên, nhạc Phật Giáo được truyền tụng trong các chùa, nghiên cứu để viết thành sách, đã được trình bày rành mạch trong các cuộc hội thảo khoa học, trong nước Việt Nam chưa có một công trình nghiên cứu rành mạch về nhạc Phật Giáo. Tôi rất mong sẽ có những nhà nhạc học để tâm đến nhạc Phật Giáo Việt Nam để cho những các tán, tụng rất độc đáo của Việt Nam được truyền lại cho thế hệ mai sau, mà không bị lớp bụi thời gian che lấp và chôn vùi.
Trích nội dung bài nói chuyện về Âm nhạc Phật Giáo tại Học Viện Phật Giáo Việt Nam tại Saigon.


QUẢNG BẢO sưu tập
Nhân loại đang bước những bước khởi đầu trên lộ trình vào thế kỷ 21. Dường như con người càng lúc càng quan tâm nhiều hơn đến những biến chuyển của thời gian. Có lẽ không phải vì con người đang ngày càng ý thức rõ hơn đến thể mệnh của thời tính, mà vì con người đang quan ngại nhiều hơn đến các sự kiện xảy ra theo vận hành của thời gian. Đó là những sự kiện có mối tương quan, tương hệ sâu sắc đến cuộc sống của con người. Chiến tranh, hòa bình, khủng hoảng, trật tự, thịnh vượng, nghèo khó, văn minh, lạc hâu, tự do, bất công, sống, chết, v.v... thuộc đủ mọi bình diện từ cá nhân, gia đình, xã hội, quốc gia đến quốc tế.
Trong thời đại văn minh tin học tối tân hôm nay, mỗi sự kiện xảy ra ở tận một lãnh địa xa xôi nào đó của đại lục Phi châu cũng tức khắc làm xôn xao dư luận tại một nước nhỏ ở lãnh địa Á châu. Chỉ cần một biến chuyển bất lợi của thị trường kinh tế tại một xứ nào đó của châu Mỹ La tinh cũng đủ làm xáo trộn tình hình kinh tế của cả thế giới. Việc đắc thất của tình hình chính trị tại một quốc gia Âu châu có ảnh hưởng không ít đến sự ổn định và chính sách bang giao trong khu vực cũng như trên toàn cầu. Thế giới thật đã ngày càng có mối tương duyên, tương tức gắn bó nhau hơn nhờ những phương tiện kỹ thuật hiện đại thuộc đủ mọi địa hạt từ thông tin, thương mại, ngoại giao, đến y khoa, giáo dục, giải trí v.v...
Từ ý nghĩa và bối cảnh đó đã giúp con người nhận thức thâm tế hơn đến những vấn đề trọng đại của nhân loại. Trước hết, con người dù với tư cách là cá nhân, cộng đồng hay quốc gia dân tộc không còn và cũng không thể sinh hoạt biệt lập, cô lập với những cá nhân, cộng đồng hay quốc gia dân tộc khác. Mối tương quan liên hệ đó không phải chỉ là giải pháp nhất thời cho đối sách thuộc lãnh vực bang giao, nó là phương thức trường kỳ để cộng sinh và cộng tiến cho cả cá nhân lẫn cộng đồng quốc gia và quốc tế. Điều này được xác chứng rõ nét qua những nhu cầu thiết yếu để sinh tồn của một cá nhân từ cơm ăn, áo mặc, nhà ở, phương tiện di chuyển, tiện nghi trong mọi môi trường như học đường, y tế v.v... Rộng hơn nữa trên bình diện quốc gia, những nhu cầu hỗ tương nhau giữa các nước về mặt ngoại giao, chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội đang ngày càng trọng yếu. Đây chính là lý do tại sao thế giới đang càng lúc càng xích lại gần nhau hơn qua các hình thái liên minh liên kết thuộc phạm vi khu vực hay trên toàn cầu.
Khi con người nhận thấy rằng nhu cầu tương quan tương duyên là cần thiết để cộng sinh và cộng tiến thì họ cũng ý thức ra được yếu tố quan trọng của sự mở cửa nhận thức, mở cửa tầm nhìn, của sự bao dung, cảm thông và hợp tác giữa mọi thành phần xã hội, mọi chủng loại, mọi sắc thái văn hóa đa dạng. Đóng cửa nhận thức chỉ là cách tự cô lập mình giữa cuộc đời muôn màu muôn vẻ, chỉ là cách sống lầm lũi trong cái vỏ ốc khép kín và nhỏ hẹp của giáo điều, tín điều, và thành kiến cố chấp. Mở cửa nhận thức mới có thể tiếp nhận được những phong phú, những đa dạng, những dị biệt của cuộc sống để sinh phong hóa đời sống của mình. Mở cửa nhận thức không, chưa đủ, cần phải mở cửa tâm hồn. Đó là cuộc sống với tấm lòng độ lượng, bao dung, cảm thông để có thể hợp tác, tương tác, trợ tác cùng nhau thăng tiến trên lộ trình hoàn thiện đời sống cá nhân và xã hội.
Trong mối tương quan tương duyên của cuộc sống cộng sinh cộng tiến, con người cũng đã tri nhận ra được một trong những thành tố quan yếu khác để thành toàn tiêu đích, đó là sự bình đẳng trong giá trị làm người. Sự tương quan tương duyên chỉ có thể thực hiện được khi mọi thành tố đều có giá trị hiện hữu như nhau, nghĩa là không có thành tố nào bị xem là đóng vai trò thứ yếu so với thành tố khác, điều ấy cũng còn có nghĩa là mọi thành tố đều có chức năng hỗ tương như nhau, cái này có cho nên cái kia có, và ngược lại, cái kia cho nên cái này có, cái này không cho nên cái kia không, cái kia không cho nên cái này không. Một người trong gia đình, trong cộng đồng, trong xã hội, trong thế giới, cũng như tất cả mọi người, hết thảy đều có giá trị hiện hữu như nhau. Không ai có thể nhân danh bất cứ lý do gì để chà đạp, để tước đi quyền sống và quyền làm người của kẻ khác. Mọi phương tiện, mọi tổ chức, mọi cơ cấu được thiết đặt ra bởi con người phải để phục vụ cho ích lợi của con người chứ không phải để khống chế, để bách hại hay để gây khổ đau cho đồng loại. Trong giá trị hiện hữu, con người không thể không đặc biệt quan tâm đến giá trị hiện hữu của những sinh thể, những vật thể khác trong hành tinh của chúng ta: thú vật, biển, sông, rừng núi, cây cỏ, nguồn nước ngọt, không khí, các tài nguyên thiên nhiên v.v... Nổ lực bảo vệ và trưởng dưỡng một môi trường sinh thái tốt, một nguồn tài nguyên và thiên nhiên hoàn hảo, sự sống quý giá của muôn thú là bổn phận thiêng liêng cao quý và cần thiết mà mọi người đều nên làm. Con người không thể tồn tại được trên hành tinh này nếu không có môi trường sinh thái tốt, không có nguồn tài nguyên và thiên nhiên hoàn hảo, không có sự hiện hữu của muôn thú vật khác.
Để duy trì và trách nhiệm đối với cuộc cộng sinh cộng tiến của nhân loại, con người cần giữ gìn và phát huy toàn vẹn một xã hội dân chủ pháp trị và một cuộc sống đạo đức tâm linh thanh khiết. Xã hội dân chủ là một xã hội thể hiện được đầy đủ tinh thần bình đẳng và tương quan tương duyên giữa tất cả mọi người. Người dân trong xã hội dân chủ có cơ hội thật sự để đóng góp tâm nguyện và khả năng của mình vào việc xây dựng xã hội. Chính họ cũng là người có trách nhiệm và quyền hạn tối hậu trực tiếp quyết định vận mệnh sinh tử của xã hội họ. Nền pháp trị giúp ổn định đúng vị thế của con người trong mối tương quan tương duyên với cộng đồng và do đó, kiến lập trật tự và an sinh cho toàn xã hội. Song song với nền dân chủ pháp trị, xã hội không thể thiếu cuộc sống đạo đức tâm linh. Vì chính cuộc sống đạo đức tâm linh thanh khiết mới là nền tảng cơ bản nhất cho mọi xã hội dân chủ pháp trị. Con người có đạo đức và tâm linh thanh khiết là con người thuần hòa, hiếu kính, bình tâm, tự chế, trí tuệ, thương yêu, khoan dung, tha thứ, độ lưọng, vị tha v.v... những đức tính không chỉ mang lại an định, hạnh phúc mà còn làm cho xã hội phát triển và phú cường.


GS Minh Chi
Có hai cuốn sách mà tốt nghiệp Đại học Phật Giáo rồi, Tăng Ni sinh phải tiếp tục đọc, thường xuyên đọc.
Một cuốn chính là thân tâm chúng ta,. Một cuốn nữa là bản thân cuộc đời, đời của mình và đời mọi người diễn biến xung qunah chúng ta, trước mắt chúng ta. Hai cuốn sách đồng thời là hai ông Thầy. Hai cuốn sách đó luôn mở rộng trước chúng ta, nhưng chúng ta thường lơ là không đọc. Nếu không chịu đọc hai cuốn sách đó, mà chỉ đọc sách nội điển, ngoại điển thi dù có đọc nghìn vạn cuốn, hiệu quả không phải không có, nhưng rất hạn chế.
Hai cuốn sách đó chính là ngọn đèn mà Phật đã từng nói đến trong Kinh Đại Bát Niết Bàn: “Hãy lấy tự mình làm ngọn đèn ... hãy dùng chánh pháp làm ngọn đèn ...”
Tự mình là thân tâm mình, cuộc đời là mình. Học chính Pháp cũng là để đối chiếu với thân tâm mình, đời mình. Hãy suy ngẫm kỹ!


Giáo sư Trần Tuấn lộ
1. Giáo dục Phật Giáo thời đức Phật còn sống
Nếu kể từ khi đức Phật Thích Ca truyền bá Giáo pháp cho mấy người học trò đầu tiên của mình là 5 vị đạo sĩ tại vườn Nai gần Benares (Ba la nại) trong đó có Kiều Trần Như (Kondanna) thì giáo dục Phật Giáo đã có một lịch sử 2583 năm, trong đó 45 năm do chính đức Phật trực tiếp thực hiện.
Giai đoạn ngắn ngủi 45 năm này trong lịch sử giáo dục Phật Giáo có những đặc điểm sau đây:
Một là, nhà giáo dục, vị thầy, vị sư phụ đầu tiên của giáo dục Phật giáo là đức Phật, người đã tự mình tìm ra được chân lý, đã chứng ngộ giáo pháp và đã tự thành Phật, đồng thời tự thành vị Phật có khả năng truyền bá giáo pháp đầy đủ và có hiệu quả nhất nên được gọi là Samma Sambuddha (Chánh biến tri). Khi chưa thành Phật, nghĩa là chưa tìm ra chân lý và chứng ngộ giáo pháp, Ngài đã từ chối lời mời của hai vị đạo sĩ Alàra Kàmàla và Uddaka Ràmaputta mời Ngài làm người dẫn dắt, giáo dục các môn đệ của họ, vì Ngài nghĩ rằng khi Ngài chưa tìm được chân lý và chưa chứng ngộ Giáo pháp thì làm công việc dẫn dắt như vậy có khác gì người mù dẫn dắt người mù. Một nhà giáo dục như Ngài, một vị Phật, một đấng Chánh biến tri, một bậc Toàn giá, một vĩ nhân có tình thương tinh khiết nhất, có trí huệ sáng suốt nhất và có cuộc đời cao thượng nhất, là một nhà giáo dục vĩ đại nhất.
Hai là, sự giáo dục của đức Phật là sự giáo dục bằng lời nói giản dị, dể hiểu mà có ý nghĩa vô cùng sâu xa và đầy thuyết phục, bàng tấm gương đạo đức trong sáng của Ngài và bàng sự chứng ngộ diệu kỳ của chính bản thân Ngài mà không cần đến sách vở kinh điển nào cả.
Ba là, sự nghiệp giáo dục của đức Phật chỉ trong 45 năm mà đạt được một kết quả kỷ lục: Ngài đã giáo dục được biết bao nhiêu người đi theo Ngài để được giải thoát từ đạo sĩ Kondanna là đệ tử đầu tiên đến đại đức Subhada là đệ tử cuối cùng, trong đó có cả Vua cha, cả Công chúa Da Du Đà La, cả con trai La Hầu La v.v... Tất cả họ đều đã đắc đạo quả cao để trở thành những bậc Tu đà hoàn, A la hán v.v... trong đó có cả 500 vị đại đệ tử A la hán v.v... mà đứng đầu là đức Ananda và đức Upali - những người đã cùng nhau ôn lại và sắp xếp những lời Phật dạy thành ta Tam Tạng kinh mà chúng ta đang có hiện nay.
Bốn là, có được những đệ tử xuất sác như vậy, đức Phật đã thành lập được Giáo hội Tăng Già với 60 vị A la hán làm thành viên đầu tiên với tư cách là đoàn thể tu sĩ xuất gia và độc thân để hoằng dương giáo pháp trong thế gian, đồng thời đức Phật cũng khẳng định rằng một người cư sĩ cũng có thể sống đời cao đẹp, phù hợp với giáo pháp và đắc đạo quả. Như thế là giáo dục Phật giáo trong thời đức Phật còn sống đã nhờ có đức Phật, có giáo pháp của đức Phật và có Giáo hội đã trở nên hoàn chỉnh với đầy đủ Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng.
2. Giáo dục Phật giáo từ sau khi Phật đã nhập diệt
Từ sau khi đức Phật đã nhập diệt đến nay, giáo dục Phật giáo thuộc về một giai đoạn mới: Đó là sự giáo dục không phải của chính đức Phật và của các đệ tử của Ngài khi Ngài còn sống, mà là sự giáo dục của Giáo hội Phật giáo đối với các Tăng Ni và đối với các cư sĩ, theo giáo pháp của đức Phật, đã được ghi lại trong Tam Tạng kinh.
Tất nhiên là trong giai đoạn này, trừ 500 vị đại đệ tử A la hán đã làm nên Tam Tạng kinh ghi những lời Phật dạy mà các vị đã trực tiếp được nghe đã trực tiếp nhận được giáo dục của chính đức Phật, tôi nghĩ rằng không có ai ngày nay có được cái diễm phúc là học trò trực tiếp của đức Phật và do đó, cũng không có ai có được cái trình độ như các vị A la hán đó. Nếu so với sự giáo dục của đức Phật thì không ai sau đức Phật kể cả 500 vị A la hán nói trên, có được trình độ và năng lực giáo dục như đức Phật. Dĩ nhiên là như vậy.
Nhưng điều đáng mừng, để được an ủi, là đức Phật đã để lại cho đời sau một giáo pháp nguyên vẹn và vô cùng phong phú qua bộ Tam Tạng kinh. Đức Phật cũng để lại một Giáo hội do Ngài thành lập mà ngày nay Giáo hội Phật giáo Việt Nam chúng ta là một hình thức dân tộc mang tính lịch sử của di sản Giáo hội Tăng già thời đức Phật. Và trên hết là biểu tượng đức Phật mà Phật tử tưởng niệm, nhớ ơn, cầu nguyện và thờ cúng. Nói cách khác, cấu trúc hệ thống Phật-Pháp-Tăng của giáo dục Phật giáo vẫn không hề thay đổi.
Chính vì thế, giáo dục Phật giáo ngày nay cũng như trong lịch sử, vẫn có và vẫn giữ nguyên những đặc trưng cơ bản của nó trong mục đích giáo dục, trong nội dung giáo dục và trong phương pháp giáo dục.
3. Mục đích, nội dung và phương pháp đặc trưng của giáo dục Phật giáo
Mục đích đặc trưng của giáo dục Phật giáo là sự giải thoát khỏi mọi sự khổ đau, phiền não muôn thuở vốn có của cuộc đời, của mọi kiếp sống của bất cứ ai. Đó là mục đích cao nhất, khó nhất, phải trải qua nhiều kiếp sống mới đạt tới được, nhưng đối với bất cứ ai cũng có thể đạt tới, không trong kiếp này thì trong một kiếp sau nếu biết và cố gắng kiên trì đi theo giáo pháp của đức Phật. Đó là Niết Bàn, là hạnh phúc tối cao và vĩnh viễn.
Sự giáo dục không phải của Phật giáo, tôi muốn nói đến giáo dục của nhà nước và của các tổ chức chính trị xã hội, cũng là sự giáo dục có mục đích giải thoát con người khỏi cái khổ của ngu dốt, của đói nghèo, của lạc hậu, của nô lệ của bất công, của bóc lột, của áp bức v.v... mà nhà nước và xã hội thường gọi là sự giải phóng: giải phóng cá nhân, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng phụ nữ, giải phóng nhân loại ... Nhưng có giải phóng được hết các nỗi khổ mang tính lịch sử nói trên, có người vẫn khổ với cái khổ muôn thuở, truyền kiếp của sự sống: sinh. lão, bệnh, tử v.v...
Vì thế tôi hiểu ra tại sao bên cạnh sự giáo dục theo hệ thống của nhà nước và của xã hội, con người vẫn cần có sự giáo dục của Phật giáo, chừng nào còn có cái khát vọng giải thoát hiểu theo nghĩa của Phật giáo.
Nội dung đặc trưng của giáo dục Phật giáo, nội dung giáo dục thuần túy của Phật giáo là Phật Pháp, bao gồm Giới-Định-Tuệ, một hệ thống các quan niệm và quan điểm triết học, tâm lý học, đạo đức học và giáo dục của Phật giáo mà hạt nhân là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo.
Tuy nhiên, trong khi đi theo con đường mà đức Phật đã chỉ để tìm tới sự giải thoát, người Phật tử, Tăng Ni cũng như cư sĩ còn phải sống với xã hội và trong xã hội và còn phải làm nghĩa vụ của người công dân đối với Tổ quốc. Vì thế, người Phật tử vẫn còn phải cần học văn hóa phổ thông và học nghề trong một trường học nào đó thuộc một bậc đại học, ngành học nào đó thuộc một bậc đại học, ngành học nào đó của hệ thống giáo dục quốc dân. Đó cũng là lý do vì sao ngay trong một trường Phật học cũng có học một số môn học không phải là môn Phật học.
Ngược lại, tôi nghĩ rằng, nhà nước cũng nên tổ chức cho học sinh đến một lớp nào đó, ở Phổ thông và ở Đại học, được học để biết một số kiến thức nhất định và chính xác về Phật giáo và Công giáo hoặc một vài tôn giáo nữa hiện có ở Việt Nam. Đó là vì con người Việt Nam chúng ta hiện nay và sau này phải là con người biết biết tôn trọng tự do tín ngưỡng và tự do không tín ngưỡng, mà muốn thế thì phải biết nội dung cơ bản của từng loại tín ngưỡng, và đó là vì mỗi tôn giáo không chỉ là sự tín ngưỡng mà còn là một nên văn hóa (triết học, tâm lý, đạo đức học, giáo dục học, kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, văn hóa, hội học v.v... của tôn giáo đó).
Phương pháp đặc trưng của giáo dục Phật giáo là phương pháp tự giáo dục, tự rèn luyện, tự thể nghiệm bằng thực hành những điều Phật dạy (thực hành Bát Chánh Đạo) với sự giúp đỡ của Tam bảo. Con đường đi tới Chân lý - sự giải thoát - Niết Bàn là ở trong tâm của mỗi con người, Phật đã dạy như vậy, mà đã là ở trong tâm thì phương pháp giáo dục của Giáo hội Phật giáo phải chuyển hóa thành phương pháp tự giáo dục của bản thân người được giáo dục. Sự giáo dục nhận thức, giáo dục trí tuệ, giáo dục tài năng đã phải là như vậy, thì sự giáo dục tình cảm, giáo dục ý chí, giáo dục đạo đức lại càng phải như vậy.
Con đường đức Phật đã đi để tìm đến được Chân lý, đến được Niết Bàn, đến được sự giải thoát là con đường do đức Phật tự tìm ra và tự đi theo với trí tuệ, với tình cảm và với ý chí của riêng mình, không có ai và không cần ai giúp đỡ cả.
Ngài đã nói: “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gột rửa cho ta. Trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta. Không ai có thể làm người khác trở nên trong sạch ” ... “Các con phải tự mình nổ lực, các đấng Như Lai chỉ là đạo sư ...” “Hãy tự xem con là hải đảo của con. Hãy tự xem con là nương tựa của con. Không nên tìm nương tựa nơi ai khác”.
Nổ lực và kiên trì của cá nhân là chính nếu không nói là duy nhất. Ngày nay, dù đã có Tam bảo (Phật-Pháp-Tăng), nhưng sự nổ lực và sự kiên trì thực hành của bản thân Phật tử theo Bát Chánh đạo mà Phật đã chỉ ra là nhân tố quyết định.


Giáo sư Phan Lạc Tuyên
Cao siêu vô cùng và vẫn là một khám phá liên tục không ngừng nghỉ đối với con người mỗi sát na biến chảy trong suốt cuộc đời phù du và hữu hạn thì Đại Bát nhã Ba la mật Tâm kinh (Maha Prajna paramita Sutra) hiện lên như mặt trời tối thượng, rực rỡ làm cho con người thấy rõ được cái “bản lai diện mục” và thấy rõ Phật tâm.
Phải chăng hiện thân của Bouddha chính là Bát nhã, và ánh sáng tối thượng của Bát nhã, hình ảnh nhục thể của Bouddha và của ta nữa sẽ không còn tồn tại vì như Bodhdharma đã nói với đệ tử: Phật là một tiếng Ấn Độ chứ không phải là tên một người và có nghĩa là giác ngộ, linh giác”, mà mọi người đều có thể đạt đến được”.
Cái tâm Phật chính là cái tâm Bát nhã, cái tâm của con người đã không còn nữa. Đó là cái tâm không có khái niệm (nondefinition mind) cái tâm mà không một khái niệm nào có thể dung chứa được. Cái tâm Bát nhã đã phá vỡ cái tâm có khái niệm, do con người đặt ra và nô lệ vào con người.
Con chim đại bàng Bát nhã đã rời bỏ đỉnh núi hạn hẹp của cái tâm thế nhơn mà bay lên vũ trụ vô cùng và vĩnh hằng, với ánh sáng kỳ diệu Bát nhã, đã nhìn rõ nỗi đau khổ vì tham, sân, si của con người chồng chất hơn cả cát sông Hằng (Gange).
“Quán tự tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”.
(Đức Quán tự tại tức là đức Quán Thế Âm trong khi thi hành Bát nhã Ba la mật đa tức là nền hạnh đức trí tuệ sâu xa và rốt ráo, đưa Bồ Tát đến quả vị Phật, thời thấy năm uẩn đều không, sự soi thấy như vậy độ thoát khỏi các sự khổ não tai ương).
Thiền sư Thần Tú nhìn cái tâm còn giới hạn, trong việc thừa nhận cái tâm có khái niệm và luôn được “lau chùi” cho trong sáng:
            Thân thị Bồ đề thọ
            Tâm như minh cảnh đài
            Thời thời cần phất thức
            Vật sự nhạ trần ai.
Thân là cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn siêng lau chùi
Chớ để bụi trần bám
Nếu ví Thần Tú như con đại bàng đậu trên đỉnh núi cao đạo hạnh thì Huệ Năng như con đại bàng tiếp tục bay vào vũ trụ mênh mông vô cùng tận của Bát nhã, xóa bỏ cái tồn tại hữu hạn của Ý-Thức-Tâm:
            Bồ đề bổn vô thọ
            Minh cảnh diệc phi đài
            Bổn lai vô nhất vật
            Hà xứ nhạ trần ai
Bồ đề vốn không cây
Gương sáng chẳng phải đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào bám bụi trần.
Con đại bàng Huệ Năng đã rời bỏ đỉnh núi cao của cái Tâm-Ý-Thức để bay vào cuộc hành trình vô tận, vĩ đại bao la không cùng của Bát nhã. Ngọn núi Tâm-Ý-Thức của Thần Tú đã bị xô ngã, không còn gì khác ngoài ánh sáng của giác ngộ mà Bouddha là hiện thân. Giác ngộ phải chăng là sự chối bỏ khái niệm tồn tại của tham, sân, si ngay trong khi nó chưa xuất hiện. Đây chính là bông sen vô tâm mọc lên từ vũng bùn phiền não, được nuôi nấng bằng đất, nước, ánh sáng của tâm Phật mà đã thành một khái niệm không phải là đất, nước, ánh sáng, tự nó chối bỏ cái đã tạo ra nó để cái tâm Phật đã chuyển thành một bông sen mà Bouddha đưa ra cho những đệ tử nghe người thuyết pháp và đã trao cho Ca Diếp. Bông sen đó chẳng còn là bông sen và đã trở thành một thông điệp của Bát nhã. Ánh sáng Bát nhã rửa sạch con người khỏi mặc cảm tội lỗi vì đã xóa bỏ mọi mặc cảm vế ý thức này trong lòng người.
Bát nhã Ba la mật đa Tâm kinh đã nói: “Vậy nên trong chân không, không có cái sắc, không có cái thọ, cái tưởng, cái hành và cái thức ... cho đến không có cái già, cái chết cũng không có pháp gì làm cho dứt cái già, cái chết. Không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo ... nhờ trong tâm không có điều gì ngăn trở nên Bồ Tát không hề thấy mình lo sợ, bèn xa lìa mộng tưởng điên đảo, đắc Niết bàn trọn vẹn”.
Cái tâm của Bát nhã đã khiến cho con người được hoàn toàn giải thoát, hoàn toàn giác ngộ, như một chân không cực lớn như Bodhidarma đã nói với đệ tử của mình “ ... Đừng lẫn lộn Tâm với trái tim bằng thịt, chính pháp thân này mà ta phải ngó nơi mình. Ta phải di động và hành động trong ánh sáng của tâm. Nó bao trùm tất cả chúng sinh như sông Hằng giữ trong nước vô số nguyên tử của đất màu mỡ. Ta không thể diễn tả nó được cũng không giải thích bằng những lời nói”. Thiền sư Tuệ Trung đã nói lên tâm sự của mình: “Khi tâm sanh, ấy tức Phật sanh. Bằng Phật diệt ấy tức Phật diệt”.
“Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,
Giữa lò lửa rực một cành sen”.
Ánh sáng Bát nhã đã khiến con người không còn có sự đối kháng giữa tâm và vật, không hề có khái niệm Thiện vì không có khái niệm Ác, gạt bỏ toàn thể cái gì không phải là giác ngộ, là giải thoát. Phật tâm là hơi thở và ánh sáng, là chính con người và sự hòa tuyệt đối đó là Pháp thân. Không ngôn từ nào có thể diễn đạt được sự giác ngộ vô cùng đó. Bodhidharma cũng đã thốt lên tiếng nói đó: “Mộng không thể học được, chết không học được. Lãnh hội Phật tánh nơi mình càng không thể học được".
Bát nhã là ánh sáng vi diệu đánh thức con người trong sự chìm đắm u mê của bao tham vọng, có những tham vọng đã được thể hiện bằng tội ác, mà tội ác có cái được che dấu, có cái bị phát hiện, nhưng còn những tội ác chưa được thực hiện thì nào người đời, luật pháp đâu có biết. Ánh sáng Bát nhã một khi được tỏa sáng trong Tâm thì tham vọng và tội ác không thể xuất hiện, dù trong tiềm thức (Subconsciousness).
Bát nhã đã khiến con người trần thế đi dần vào sự thức tỉnh, tự mình thức tỉnh như một đóa sen bừng nở trong trong một ao bùn và đưa hương. Sự thức tỉnh tự tìm xem khuôn mặt của chính mình tự trở về cái “bổn lai diện mục”, tìm về cái vô cùng rực sáng của Phật tâm, mà gọi tham, sân, si đã bị đẩy lùi và biến mất một cách vĩnh viễn thì làm gì còn có khái niệm Ác, mà Ác không còn khái niệm thì lấy gì làm đối tượng cho khái niệm Thiện, con người không còn phải đấu tranh với cái Ác, và con người Phật tâm sẽ làm cho chính mình và xã hội là Phật tâm.
Bát nhã rực sáng đốt cháy mọi điều vị kỷ riêng tư, hòn ngọc kim cương vô ngã bỗng tỏa sáng dũng mãnh, như hư vô, hiền hậu như chân không, dịu dàng như vô lượng của thiên hà một đêm vũ trụ tỏa sáng.
Bát nhã mang lại vô ngã và vô ngã đã làm bừng sáng lên những sức mạnh của Vô úy và Vô chấp. Một con thuyền vô hình đã đưa con người sang bên bờ của Đại giác. Dòng sông của tham, sân, si, cuộc sống đã trở về phía sau với sự giác ngộ Phật tâm.
Nếu chúng ta đi dần vào ánh sáng của Bát nhã có nghĩa là Phật tâm đang lớn lên như nụ sen đang từ vũng bùn trần tục ngoi lên mặt nước. Chúng ta đã hốt nhiên độ được chính mình, hốt nhiên Phật tâm đã trở về vĩnh hằng trong chúng ta, và Bouddha là bông sen và cũng chính Bouddha trao tặng cho ta như đã từng trao cho Ca Diếp.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC
PHẬT GIÁO TRONG THỜI HIỆN TẠI
Giáo sư Nguyễn Khắc Thuần
Không ai phủ nhận rằng, ngay từ buổi đầu của thời kỳ Bắc thuộc, cho dẫu Phật giáo đã có một vị trí không nhỏ trong đời sống tinh thần của xã hội ta, các triều đại phong kiến Trung Quốc thống trị vẫn tạo mọi điều kiện thuận lợi để Phật giáo có thể tiếp tục truyền bá vào nước ta một cách mạnh mẽ, và cũng không ai phủ nhận rằng, quá trình tạo mọi điều kiện thuận lợi này, cũng chính là quá trình Trung Quốc tìm cách lợi dụng tất cả những gì có thể lợi dụng được ở nhà Phật, nhằm không ngừng tăng cường và cũng cố sức mạnh của nền đô hộ. Tuy nhiên, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, bao giờ cũng có những quy luật vận hành mang tính đặc trưng của mình, không dễ gì phụ thuộc hoàn toàn, càng không dễ gì bị sa lầy trong vòng cương tỏa nghiệt ngã của chính quyền Bắc thuộc. Phật giáo đã tìm được con đường thích hợp để đến với xã hội, và xã hội đương thời đã tiếp nhận Phật giáo với một quy mô ngày càng rộng lớn hơn. Thư tịch cổ và đặc biệt là kho tàng phong phú của truyền thuyết dân gian đã xác nhận điều này.
Muốn tồn tại và phát triển, tôn giáo nào cũng đều phải nhập thế. Vấn đề còn lại chỉ là những phương cách và kết quả khác nhau của quá trình nhập thế rất tích cực của nhà Phật chính là việc nhận lãnh địa hạt giáo dục mà bấy giờ vẫn còn như là bỏ ngỏ. Nói khác hơn, nhà Phật vừa truyền đạo vừa mở mang trí tuệ cho xã hội. Hai hoạt động này luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Có một  thời rất lâu dài trong lịch sử nước ta, nhà chùa là nhà trường và nhà sư là nhà giáo. Ngàn xưa dân gian vẫn thân mật gọi các nhà sư là Thầy chùa. Dầu muốn hiểu theo bất cứ nghĩa nào thì hai tiếng Thầy chùa cũng đều hàm ý tốt đẹp cả, và có lẽ cũng không phải là ngẫu nhiên, khi trong Hán tự, chữ sư vừa có nghĩa là thầy giáo, lại vừa có nghĩa là nhà sư.
Đông Tây kim cổ đều cho hay, dạy học là một nghệ thuật. Với loại hình nghệ thuật đặc biệt này, vốn hiểu biết của người thầy là cực kỳ quan trọng, bởi vì suy cho cùng, bài giảng hay nhất bao giờ cũng chính là những bài giảng chứa đựng lượng thông tin phong phú và có hệ thống nhất của môn học, nhưng yếu tố quyết định thành công trong nghề nghiệp, quyết định vị trí cao thấp của người thầy, lại không hề gói trọn trong phạm vi chật hẹp của vốn hiểu biết. Lịch sử nền giáo dục nói chung và giáo dục nhà Phật ở Việt Nam đã cho thấy rõ điều này.
Thoạt đầu, xã hội cảm nhận Phật giáo thông qua hình ảnh cụ thể của các nhà sư, cảm nhận sự cần thiết phải học hỏi thông qua những biểu hiện dễ thấy về tư chất của người tu hành. Trong số rất nhiều biểu hiện tốt đẹp của các bậc xuất gia, có bốn điều mà bất cứ ai cũng đều có thể dễ dàng thấy được. Một là đạm bạc trong ăn uống, hai là giản dị trong sinh hoạt, ba là đứng đắn trong giao tiếp và bốn là tận tụy với thế tục. Gồm đủ bốn điều rất dễ thấy ấy, người tu hành được dân tin, và niềm tin bao giờ cũng là tài sản vô giá của mọi thời. Nhà Phật tổ, hàng loạt những khái niệm và cách giải thích khái niệm rất riêng của mình, vì sở thích, lại cũng vì lý do nghề nghiệp, tôi đọc chí ít hàng chục cuốn sách của nhà Phật, trong đó, có cuốn đọc đi đọc lại không biết bao nhiêu lần, nhưng thú thực, phần hiểu được chẳng đáng là bao. Chắc rằng tuyệt đại đa số những người sống trong thời Bắc thuộc cũng khó có thể hiểu được, Bấy giờ, xã hội thành kính cho nhà chùa tất cả đều tôn nghiêm, trước hết, có lẽ chưa phải là vì sự hiểu biết mà là vì sự tin cậy. Nhà Phật đến với địa hạt giáo dục bắt đầu từ sự tin cậy đặc biệt này.
Thời Bắc thuộc, có cuôc song hành giữa hai loại hình giáo dục trong phần lớn các nhà chùa. Một là truyền bá kiến thức thông thường cho thế tục. Loại hình này bao hàm những hoạt động đại thể như: dạy chữ nghĩa, dạy đạo lý ở đời, dạy phép đối nhân xử thế và dạy cả cách làm ăn sinh sống nữa. Tôi rất thích lời truyền tụng của nhân gian về câu nói của nhà sư Già La Đồ Lê rằng: “Hãy chỉ vẽ cho chúng sinh những gì chúng sinh đang cần mà chưa vội rao giảng cho chúng sinh những gì ta biết”.
Loại hình thứ hai, mang đậm đà đặc trưng của nhà chùa là giảng đạo. Loại hình này sẵn cần cả bá tính, nhưng xem ra, chỉ những ai giàu lòng mộ đạo và có duyên số, những người theo được lâu bền đều trở thành các bậc xuất gia.
Như vậy, nói theo cách nói ngày nay thì trên đây là hai loại hình giáo dục, thích ứng với hai loại đối tượng khác nhau. Sự thích ứng này đã tạo hiệu quả tốt đẹp. Thời Bắc thuộc, hễ nói đến giáo dục thì cũng có nghĩa là trước hết và chủ yếu là nói tới giáo dục nhà Phật. Bấy giờ nhà sư là lực lượng trí thức quan trọng của xã hội. Có cái gì đó rất đáng kính, không có trong giáo lý nhà Phật, nhưng lại gắn bó mật thiết với nhà chùa và nhà sư đương thời.
Trong chỗ tự nhiên của quá trình tìm tòi và so sánh, hậu thế thường rất dễ đắc tội với cổ nhân, nhưng chối bỏ việc tìm tòi và so sánh, thật khó mà làm nổi bật được những điều cần làm nổi bật. Muốn hiểu rõ hơn về giáo dục nhà Phật trong thời Bắc thuộc, hản nhiên là phải so sánh với giáo dục của nhà Nho đương thời. Cũng là giáo dục, nhưng hai hệ thống này có rất nhiều điểm hoàn toàn khác biệt nhau.
Bấy giờ đến với nhà Nho cũng có nghĩa là chấp nhận guồng máy đô hộ của quân xâm lăng, chấp nhận tư tưởng ngoại lai được quân xâm lăng áp đặt trên toàn cõi. Cảm giác nẩy nở từ thực tế chua xót này không có khi đến với nhà Phật.
Thời Bắc thuộc, cho dầu là ở bất cứ nơi đâu thì nhà quan vẫn là nhà quan, xa trông đã thấy có cái gì có vẻ đầy vẻ quyền uy và cách biệt với thế gian, không phải là nơi lui tới của những người thân phận thấp hèn. Ngược lại, các bậc xuất gia tu hành thì ở chùa, nhưng nhà chùa không phải là của riêng nhà sư. Bất cứ ai cũng có thể tới chùa, bởi vì cửa chùa lúc nào cũng mở rộng với chúng sanh khắp thiên hạ. Trong Tiếng Việt, chùa không chỉ có nghĩa là chùa chiền mà còn có nghĩa là sự thoải mái, là miễn phí và nhiều nghĩa tương tự nữa.
Thảng hoặc đó đây, cũng có ý kiến cho rằng, hệ thống giáo dục của nhà Phật bộc lộ khá rõ sự thiếu vắng những bài bản chặt chẽ, những quy chế rạch ròi, những bằng cấp cao thấp cụ thể ... Hẳn nhiên, ý kiến này không phải là hoàn toàn sai, song cũng khó nói là đúng. Về mặt phương pháp luận, lấy hệ thống giáo dục này làm chuẩn mực để xét đoán hệ thống giáo dục khác là điều không nên, cũng là điều không thể, vả chăng, nếu lấy hiệu quả thiết thực làm cơ sở để nhìn nhận, thì rõ ràng giáo dục nhà Phật đã làm được tất cả những gì có thể làm trong điều kiện đối với khó khăn của thời Bắc thuộc. Từ hiệu quả rất thiết thực này, nhà Phật đã khẳng định được vị trí quan trọng nhất so với tất cả các hệ tư tưởng và tín ngưỡng vốn có ở ta đương thời. Không thể nói là ngẫu nhiên, khi mà tất cả các triều đại nối nhau cai trị trong buổi đầu của kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thống nhất, đều đề cao nhà Phật, đều đặt hẳn một hệ thống quan lại dành riêng cho các bậc đại sư, gọi là tăng quan, đều coi Phật giáo như là quốc giáo của nước nhà.
Cùng với quá trình truyền bá và phát triển của Phật giáo ở nước ta là quá trình hội nhập tự nhiên và ngày càng sâu sắc của đạo đức nhà Phật với đạo lý cổ truyền của nhân dân. Đây vừa là, lại cũng vừa là nguyên nhân, khiến cho giáo dục nhà Phật có thể thấm sâu vào xã hội. Từ nhà chùa đi vào nhà dân, cả dung mạo lẫn hàng trạng của Phật đều có những biến thái, nhưng đây là sự biến thái rất đáng yêu. Phàm là người Việt, có lẽ không một thế hệ nào không biết tới Bụt.
Về nguồn gốc Bụt cũng chính là Phật, nhưng trong tâm tưởng của dân, Bụt có nhiều nết không giống Phật. Nói khác hơn, chúng sanh tiếp nhận Phật giáo theo cách của chúng sanh. Chẳng hiểu vì sao, tôi cứ tin rằng, nếu quả có Phật hiện hữu lúc này, thế nào Phật cũng vui vẻ nhận lời hóa thân làm bụt, bởi vì suy cho cùng, việc này chẳng hề phương hại gì đến tâm nguyện của đấng Vô thượng cao cả.
Sau thời Bắc thuộc, Phật giáo còn tiếp tục quản lãnh địa hạt giáo dục thêm một thời gian khá dài nữa. Ngay cả khi giáo dục Nho học đã trở nên cực thịnh, Phật giáo vẫn không hề coi nhẹ trách nhiệm hợp tác đầy thiện chí của mình.
Đã có không ít ý kiến đề cao vai trò giáo dục Nho học đối với toàn bộ tiến trình phát triển chung của lịch sử giáo dục ở Việt Nam. Đây là điều không thể phủ nhận được, nhưng có lẽ cũng cần phải nhấn mạnh rằng, một trong những cơ sở thành công của giáo dục Nho học chính là nhờ ở sự nghiêm cẩn kế thừa và phát huy những kinh nghiệm của giáo dục Phật giáo thời Bắc thuộc.


Giáo sư Hoàng Thiệu Khang
Cảm hứng lý thuyết của tác giả bài tham luận nhỏ này là sự tiếp cận những tính chất thẩm mỹ của Phật giáo để phát biểu những nội dung giáo dục thẩm mỹ. Do vậy, bản tham luận vừa mang tính lý thuyết và vừa mang tính phương pháp, tính thực tế Phật học là một hệ thống lý thuyết uyên áo, nhưng hệ thống ấy không thoát ly cõi đời, nó soi mình vào đời để mong giải thoát cho con người trần thế.
1. Giáo dục, theo tinh thần Phật học, là một thiết kế tự nguyện, tự giác. Tự nó, tính tự giác đã bộc lộ một trình độ của người học, dầu chỉ là trình độ khởi đầu. Giáo dục theo tinh thần Phật học là một quá trình do người thầy thiết kế đẻ người học tự tìm ra bản thể của mình, trở về chính mình. Đó là một hành trình vì sống trong những điều kiện hiện thực, con người rất dễ bị rơi vào tha hóa (aliénation). Tìm ra chính mình để trở về với chính mình là một quá trình nhận ra cái bi để đi đến cái đẹp.
Lại nữa, hành trình về Niết bàn là một quá trình “quên” - được hiểu theo nghĩa triết học. Trên con đường muôn dặm có những con sông cắt ngang. Để có thể qua sông, con người phải nhờ người lái đò ngang (tirthankara). Nhưng muốn đi tiếp thì khi đã sang được bờ, con người phải “quên” người lái đò, “quên” cả con đò. “Quên” ở đây không mang nghĩa đạo đức. Nó là một khái niệm chỉ định tính chất đồng hóa những giáo lý, lời giảng của thầy. “Quên” là sự chuyển hóa thành máu những gì đã được ăn.
2. Công việc đầu tiên của việc giáo dục thẩm mỹ theo tinh thần Phật học là việc chỉ ra được phạm trù cái Bi. Bi chứ không phải là buồn. Có rất nhiều cái buồn mà không hề mang thẩm mỹ cái Bi. Buồn là một trạng thái tâm lý, tình cảm. Bi là một khái niệm triết lý, nhưng với Phật học, đây là triết lý hiện thực trong cõi đời. Nó thể nghiệm đời con người.
Con người tự giới hạn mình trong sinh, lão, bệnh, tử  là Bi chứ không phải tự nó, “sinh, lão, bệnh, tử” là Bi. Bi diễn ra nơi quy luật tất yếu, không diễn tiến theo cái tất yếu. Quy luật tất yếu là sự sống. Phản quy luật là sự tàn lụi, sự chết. Sự sống rơi vào tàn lụi, sự chết, nơi đó là cái Bi. Vậy thì vấn đề là một cách nhìn, một thái độ. Quy luật là “xuân đi muôn hoa rụng, xuân đến muôn hoa khai”. Đối với quy luật tiêu trưởng ấy như thế nào là cả một linh hồn Phật học.
Bị buộc mình vào nỗi sợ hãi bởi “sinh, lão, bệnh, tử” vì con người cảm nhận cuộc sống là thường, cảm nhận mình là ngã. Thoát khỏi cảm nhận ấy, con người tiến đến sự giải thoát. Sống trong cảm nhận ấy, con người bị tha hóa trong ham muốn, trong si mê, đố kỵ, giận hờn ...
Đó là vòng luẩn quẩn. Đó là cái nghĩa đích thực của “luân hồi" (samsara). Luân hồi không phải là một khái niệm siêu hình mang tính chất mê tín. Đó là một khái niệm siêu hình học (métaphisique). Nó chỉ định một bế tắc, một  giới hạn của ngộ nhận. Cho con người nhận ra mình là một thực thể còn bị trói buộc trong cái Bi của luân hồi là việc đầu tiên của việc giáo dục thẩm mỹ theo tinh thần Phật học.
3. Để thoát khỏi cái vòng bi kịch luẩn quản ấy, con người phải tựa vào con đường mà đi? Đó là vấn đề tiếp theo của Phật học.
Không thể nào theo con đường của Bà la môn - con đường nhuốm màu không thể có thực. Theo Bà la môn, để có thể có Mok’sa (giải thoát), con người phải đứng ở nơi xuất phát nơi kinh nghiệm thuần túy (pure espérience). Con người phải tự vứt bỏ ý thức, con người bấy giờ chỉ là một thực thể giác quan thuần túy. Từ đó, con người đi vào một trạng thái giấc mơ (état de rêve). Rồi con người đi vào một giấc thụy miên ... Con người nhập vào chân lý trong thụy miên. Đó là một con đường mà con người trở về với cái vô thức. Nhưng con người là một thực thể có ý thức. Con người phân biệt mình với động vật ở cái chất ý thức. Không thể có một giác quan nào của con người lại không là giác quan mang tính ý thức. C. Mác đã chỉ định đúng rằng: “Mắt chỉ có trở thành mắt con người khi đối tượng của mắt đã trở thành đối tượng xã hội (objét social) của con người, một đối tượng từ con người và trở về với con người ...”
Phật học là một hệ thống đòi hỏi con người giác ngộ bằng trí tuệ, có nghĩa là bằng yếu tính tỉnh thức. Đó là linh hồn của chữ “Giác”. Giác là “Tuệ giác”, là trí huệ. Như vậy, để tiến đến một thực thể lý tưởng, một thực thể đẹp, theo tinh thần Phật học không phải là sự từ bỏ ý thức mà ngược lại, phải đem ý thức đến tận cùng, đến độ viên mãn. Chỉ có thể thoát khỏi cái Bi nơi vòng luân hồi luẩn quẩn khi con người có đôi mắt đại giác huệ nhãn.
4. Đôi mắt đại giác thể hiện như thế nào?
Đôi mắt là đôi mắt biết nhìn vào “vô thường, vô ngã”. Đây là cả một phép biện chứng vô cùng tinh khiết và uyên áo. Nó thực thi một sự thống nhất sâu xa giữa cuộc đời thật với cõi Đạo lý tưởng. Nó nâng cái đời có thật của mỗi con người lên cõi Đạo cao đẹp. Con người không siêu thoát đi đâu cả, con người vẫn sống trong cõi hiện thực của đời mình, nhưng con người cũng đồng thời đang được sống ỡ cõi Niết bàn. Con người thực thi một tinh thần siêu thoát nơi cuộc sống của mình.
“Vô thường” là một cách thể nhận ra chân quy luật cuộc sống. Nó không nhìn cuộc sống là ảo ảnh. Nó thấy cuộc sống là vận động, biến động. Có thể dẫn ra hàng trăm câu kệ của các vị Thiền sư đời Lý, Trần để minh họa cho ý nghĩa trên; những câu kệ của Vạn Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác, Giác Hải ... Như vậy, “vô thường” là một cặp mắt nhìn vào hiện thực để phát hiện ra những quy luật vào hiện thực đang rì rào chảy dưới nơi địa tầng sâu thẳm của cuộc đời. Quy luật nằm ở nơi đáy sâu tiềm tàng, tiềm ẩn. Cho nên việc thấy được luật cũng là một sức mạnh của nhận thức. Đó là huệ nhãn.
“Vô ngã” là một kết quả, một kết luận của ý niệm “vô thường. Có nhận biết được cuộc sống là vô thường thì  mới có thể có một cách thể vô ngã. Tiến đến vô ngã, con người sẽ thoát khỏi phạm trù cái bi kịch, một phạm trù vốn trói buộc con người từ muôn thuở muôn nơi ... Con người sẽ thực thi được một thăng hoa từ mặt đất cuộc sống. Niết bàn là vô ngã. Nơi ấy, con người vẫn ăn cơm với đời, vẫn ở với người khác, nhưng con người không ở bằng cái thân của mình, một cái thân cạn cợt. Tinh thần siêu thoát bộc lộ tập trung ở nơi đây. Lại một lần nữa, xin lưu ý, tinh thần siêu thoát không phải là một thái độ thoát ly cuộc sống, mà ngược lại, là một thái độ nhập thế tích cực, một thái độ nhập cuộc (engagé).
Có nhập thế, nhập cuộc mới đến được cái Đẹp, vì cái Đẹp là cuộc sống. Hiển nhiên, đó là cuộc sống lý tưởng. Hệ thống mỹ học Phật giáo chính là nơi đặt ra tư tưởng của cái Đẹp lý tưởng tồn tại nơi trần thế, trần ai. Tư tưởng này về sau cũng đã được thể hiện trong hệ thống Mác xít.
5. Cái đẹp, theo tinh thần Phật học là an nhiên, tự tại, lạc quan. Đức Phật tự hái đóa hoa đẹp từ cõi đời này, chứ không từ vườn địa đàng Thượng đế mơ hồ. An lạc là một nội dung, một cách thế trong đời, ở với đời. Chữ “Vô” không đồng nghĩa với “hư vô” (Méhilisme). “Vô” là sự thống nhất giữa hữu và vô.
An lạc là một sức mạnh tinh thần của bản lĩnh tự tại. Bấy giờ, nghịch cảnh nằm ở ngoài con người, không chi phối nổi con người. Trong nghèo hèn cũng như trong giàu sang, trong yên bình cũng như trong uy vũ huy hiếp ... vẫn một bản lĩnh tự tại ấy; đó là an lạc. Đó là cái đẹp theo tinh thần Phật học.
6. Trong tinh thần Phật học, đẹp là một vị tha, là hạnh phúc của vị tha. Vị tha không phải là một ban phát, bố thí. Nó là sự vong thân, một xả thân mà không hề đòi hỏi sự đền bù. Đó là cái đẹp đến độ viên mãn. Chủ thể thẩm mỹ cảm nhận chính mình nơi thái độ hy sinh này. Hiện thực cuộc sống của cá nhân được nâng lên tầm lý tưởng, nhưng đó là lý tưởng từ hiện thực, của hiện thực. Lại một lần nữa, chúng ta hiểu tư tưởng nhập thế của Phật học. Liên tưởng tới một ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Sống trong đời cần có một tấm lòng, để làm gì em có biết không? Để gió cuốn đi ...” Làm ra thành tích mà không ở lại thụ hưởng. Đó là cái nghĩa đích thực của cái đẹp vong thân.

Đại đức Thích Phước Đạt
Không phải ngẫu nhiên dân tộc chúng ta tôn vinh ngày 20 tháng 11 hàng năm là ngày Hiến Chương Nhà Giáo Việt Nam. Thực tế từ trong tâm khảm của mỗi người ai cũng nghĩ rằng được sinh ra và lớn lên từ vòng tay yêu thương của cha mẹ, được giáo dưỡng trưởng thành từ sự chỉ dạy của người Thầy. Cho nên, vai trò, vị trí người Thầy được xã hội tôn vinh lên hơn bao giờ hết từ xưa cho đến nay bằng những danh hiệu cao quý: “Thầy giáo là kỹ sư của tâm hồn”, “Người Thầy dạy dỗ một đời không biết mỏi mệt (giáo nhơn bất quyện)”. Từ nếp sống tôn sư trọng đạo đã đi vào đời sống dân tộc Việt Nam đúng như lời nhận định: “Tôn sư trọng đạo” vốn là truyền thống vô cùng tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta. Một dân tộc có bốn nghìn năm văn hiến, nổi tiếng có học, biết trọng chữ nghĩa, đã hun đúc tự nghìn đời.
Trong ý niệm đó, tất cả những  người con Phật đang hiện hữu trên cõi đời đều tôn vinh đức Phật Thích Ca là người Thầy căn bản nhất, cao quý nhất - đức “Bổn Sư” khai mở tâm thức huệ mạng trong cuộc hành trình về miền đất giải thoát đầy an lạc. Hoặc ở góc độ này, hoặc ở lĩnh vực khác, Thế Tôn cũng được tôn vinh lên là vị Giáo Chủ, hoặc là nhà tư tưởng, một triết gia, một nhà giáo dục vĩ đại, nhưng trên hết vẫn là người Thầy khả kính gần gũi chỉ dạy cho mọi người sống theo nếp sống hướng thượng, vượt ra ngoài sự cám dỗ, vây hãm mà đời sống thế tục thường hay trói buộc khổ đau hệ lụy đang diễn biến từng ngày ở mọi lúc mọi nơi.
Chính đức Phật là vị Thầy không biết mỏi mệt trong sự nghiệp giáo dục trồng người vì lợi ích trăm năm và hơn thế nữa. Trong suốt 45 năm thuyết pháp độ sanh, ngài đã đi khắp nơi đến muôn vàn miền đất để khai thị giáo hóa tất cả chúng sanh không phân biệt tâm tính dị biệt, sắc tộc, địa vị, quyền uy. Với trách nhiệm là người Thầy, Thế Tôn thường luôn thẩm sát  về đối tượng giảng dạy, nội dung giáo huấn, phương pháp truyền trao như thế để phù hợp với căn cơ nguyện vọng của từng đối tượng trong từng trường hợp không gian, thời gian thích hợp để đạt hiệu quả cao nhất mà người học trò có thể lĩnh hội tất cả các yếu chỉ cần truyền. Mục tiêu giáo dục mà vị Thầy của chúng ta - Thế Tôn hướng đến là đào tạo ra con người xã hội đáp ứng được nhu cầu của đất nước, hướng đến bằng sự an lành thịnh vượng, bên cạnh đó là con người đúng với sự thật chính nó đáp ứng sự bình an nội tại giữa tâm sinh lý, giữa ý chí và trí tuệ, tình cảm trong mỗi cá thể con người.
Xem ra, đức Phật là vị Thầy để lại dấu ấn muôn đời với không biết bao nhiêu thế hệ học trò, không biên giới lãnh thổ, tâm thức con người. Thật là không có giá trị hữu hiệu giáo dục nào cả khi người Thầy không nắm rõ về đối tượng giáo dục mà mình đang giảng dạy là ai để đề ra nội dung tương ứng, thích hợp với kỹ năng truyền đạt. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, mỗi thành viên được học tập, được giảng dạy thường có các điều kiện sinh hoạt, sống và làm việc khác nhau về mặt tâm sinh lý, tình cảm nhận thức khác nhau. Cho nên người Thầy giáo thành công nhất là người biết tìm ra đối sách thích hợp để trao truyền mà người học trò có thể tiếp nhận yếu chỉ của người Thầy truyền đạt với những điều kiện và phương thức giáo dục tối ưu riêng biệt. Thế Tôn là bực Thầy kỳ tài trong lĩnh vực này. Ngay từ buổi Thành đạo, Ngài đã thẩm sát quán chiếu thấy rõ năm anh em Kiều Trần Như là đối tựong thích hợp nhất để lĩnh hội bài pháp đầu tiên “Sự Thật về Tứ Đế” có giá trị làm cho bánh xe Pháp vận hành trên cõi đời này. Nguyên tắc giáo dục theo căn cơ, theo điều kiện hoàn cảnh của từng đối tượng này đã làm cho đức Bổn Sư của chúng ta trở thành vị Thầy vừa tôn kính vừa gần gũi biết chừng nào ngay trong đời sống bình nhật. Cũng như hình ảnh hồ sen được miêu tả trong kho tàng văn học Kinh tạng Pàli, có những cánh sen chưa nhô mầm ra khỏi mặt nước để tiếp cận ánh sáng mặt trời, có những cánh sen đã vươn mình ra trước gió. Có những cánh sen thẳng đứng để tỏa hương thơm ngát trời. Hẳn nhiên con người căn trí bất đồng, có người độn căn và hạ liệt, có người độn căn thông minh vừa phải, có người xuất chúng lại cao sang v.v... tất cả đều được vị Thày chúng ta hướng dẫn khai thị với những bài pháp thích hợp đúng thời đúng chỗ. Khi cần giảng dạy cho bậc lãnh đạo vua chúa thời âm vang lời nói của Thế Tôn mang tính chỉ đạo, quốc sách, chiến lược để đất nước thạnh trị. Kinh Tăng Chi, chương Bảy Pháp đã đề cập đến bảy điều kiện phát triển quốc gia, chương Mười Pháp đề cập đến mười điều gọi là “Thập Vương Tử Pháp” thiết lập bộ máy lãnh đạo đầy đủ phẩm chất trị vì đất nước. Cụ thể hóa như sau:
1. Độ lượng, bố thí, bác ái.
2. Không tham ái, không tham tiền của và tài sản.
3. Không sát sanh, không bóc lột, không trộm cắp, không tà dâm, không say sưa.
4. Hy sinh tất cả vì lợi ích của dân chúng, sẵn sàng từ bỏ mọi tiện nghi cá nhân.
5. Hiền từ và hòa ái.
6. Tri túc (biết đủ) trong đời sống.
7. Không được sân hận, không được tư thù.
8. Nhẫn nhục trước mọi khó khăn, trước mọi chỉ trích mà không mất bình tĩnh.
9. Không hại người, đề cao hòa bình, ngăn chận chiến tranh, bạo động, phá hoại sự sống.
10. Không chống lại ý muốn của dân mà thuận ý dân.
Khi tiếp cận quần chúng lao động, ngôn ngữ diễn giảng của Thế Tôn cũng rất giản dị, dể hiểu, đáp ứng nhu cầu đời sống tâm thức chính họ trông chờ. Như người Thầy mở hướng chỉ dẫn cho học trò với tấm lòng bao dung tận tụy, lo toan đời sống hạnh phúc từng cá thể được thiết lập khi thực thi:
1. Giỏi tay nghề, siêng năng, biết điều hành công việc.
2. Biết quân bình thu chi và tạo số thu lớn.
3. Biết làm ra của cải hợp pháp theo khả năng lao động của mình.
4. Biết đầu tư cho công ăn việc làm.
5. Biết làm bạn với người hiền.
6. Biết quân bình thân tâm, giữ gìn sức khỏe.
7. Biết cho cho đời sau, có tín, thí, giới, tuệ.
Trong đời sống hướng dẫn Tăng Ni tu tập, Ngài đã khéo léo giảng dạy, độ trì cho Tỳ kheo Cullapanthaka ám độn, bốn tháng chưa học thuộc bài kệ bốn câu. Với một tâm lý tuyệt vọng, muốn hoàn tục để tu phước. Sau khi được Thế Tôn trao cho một tấm vải sạch và bảo vừa lau bụi vừa nói “đồ lau bụi”, Tỳ kheo đã tinh tấn thực hành theo lời dạy không biết mệt mỏi. Khi miếng vải tinh sạch bị đen sì bởi bụi trần dính vào là lúc Tỳ kheo Cullapanthaka bỗng nhiên hốt ngộ tính vô thường của các hành, tâm an trú trên đoạn diệt, đi vào Thiền quán, tẩy rửa tất cả các phiền não còn chất chứa trong tâm thức. Khi nguồn tuệ có sẵn bên trong rực sáng lên, Thế Tôn đã nêu ý nghĩa đó bằng bài kệ, Tỳ kheo Cullapanthaka liền đắc quả A la hán, chứng Vô ngại giải, thông suốt ba tạng Kinh điển.
Rõ ràng thẩm sát đối tượng giáo dục theo căn cơ trình độ học trò là điều cần thiết cho tiếp nhận. Nó có tác dụng khai mở trí tuệ và phát triển nhân cách đi đến sự tột cùng của sự hoàn thiện. Suy cho cùng mục tiêu giáo dục duy nhất từ xưa đến nay là thăng chứng quá trình chuyển hóa nhân tính. Hau nói cách khác, theo Phật giáo quá trình đó chính là quá trình chuyển hóa nghiệp quả, và người Thầy chính là người có tác động, gợi mở hướng đi chuyển hóa nghiệp cũ đã làm của tự thân mỗi người sang nghiệp mới với một ý thức tác ý rõ ràng, cụ thể theo mục tiêu nhất định. Thế Tôn là người Thày từng khiến các học trò của mình thường xuyên tẩy rửa, đoạn trừ các hành động có kết quả xấu về thân, khẩu, ý ngay trong hiện tại. Nội dung giảng dạy phải thiết thực hiện tại mang tính thực tiễn hữu hiệu. Con người phải biết an trú nếp sống hiện tại. Chỉ có sống với hiện tại, con người mới chuyển hóa và thăng tiến trí tuệ. Than thở tiếc nuối quá khứ chỉ là con đường đi đến sự tuyệt vọng dẫn vào ngõ cụt cuộc đời đầy khổ đau. Mơ màng đến tương lai chỉ tạo ra sự ảo giác hạnh phúc cuộc đời, trong khi hiện tại chẳng khởi động thiện tâm thì sẽ rơi vào đời sống phi thực. Tuổi trẻ sẽ đi qua, già nua ắt phải đến trong khi dòng sống vẫn tiếp hiện vô cùng sống động và thật có ý nghĩa. Sống thực với hiện tại mở ra chân trời mới đầy tự do khi khát vọng trông chờ hạnh phúc hóa hiện. Bài học của vị Thầy chúng ta giảng dạy hôm nào vẫn còn âm vang khắp nơi:
            “Không than việc đã qua
            Không mong việc sắp tới
            Sống ngay với hiện tại
            Do vậy sắc thù diệu
            Do mong việc sắp tới
            Do than việc đã qua
            Nên kẻ ngu héo mòn
            Như lau xanh lìa cành
Hay:
            “Quá khứ không truy tìm
            Tương lai không ước vọng
            Qúa khứ đã đoạn tận
            Tương lai lại chưa đến
            Chỉ có pháp hiện tại
            Tuệ quán chính nơi đây”.
Chính Thế Tôn, vị Thầy cao cả của chúng ta đã khéo léo từ chối các vấn đề siêu hình do người học trò Màlunkyaputta đạt ra như là Thế giới là thường, vô thường, tồn tại hay không tồn tại sau khi Như Lai nhập diệt. Thế Tôn đã ôn tồn diễn giải các vấn đề siêu hình đó chẳng có giá trị gì trong sự đánh thức trí tuệ bừng khởi và làm cho các hạt giống thiện nhân trong tâm thức đâm chồi hay nảy lộc bằng sự hóa hiện các hạnh lành được thực hiện bởi các hành động, lời nói, ý nghĩ. Như câu chuyện người bị trúng mũi tên độc, vấn đề cấp thiết là phải rút mũi tên ra khỏi bệnh nhân, chứ đừng vội vã đặt ra các câu hỏi như mũi tên từ đâu đến, sao lại bị nhiễm độc, ai khởi tâm bắn? Cũng thế vấn đề cấp thiết nhất của người học trò cần tiếp nhận là nội dung giáo dục có tính thiết thực hiện tại, giải thoát khổ đau được soi rọi bằng trí tuệ bừng khởi mà người Thầy dày công hướng dẫn.
Tất nhiên, sự thành tựu mà người học trò đạt được đó là kết quả hai chiều của người trao và người nhận. Thế Tôn từng khuyến cáo Ngài chỉ là người Thầy hướng dẫn để học trò thực thi đúng nội dung những gì đã tiếp nhận. Vị Thầy của chúng ta thường dạy “Hãy trở về nương tựa hòn đảo chính mình, nương tựa Pháp” bằng cách thực thi con đường Bát Thánh đạo, nền tảng của Giới-Định-Tuệ. Mỗi bước đi ra ngoài vùng tâm lý tham, sân, si, giải trừ nô lệ, xây dựng tinh thần độc lập tự chủ cho mỗi cá thể. Một vị Thầy như thế sẽ đào tạo ra biết bao nhiêu thế hệ học trò làm chủ xã hội vì hạnh phúc của nhân dân, trong đó có hạnh phúc của chính mình.
Cần nói thêm rằng sở dĩ người học trò lãnh hội và liễu đạt trọn vẹn nội dung giảng dạy mà người Thầy đã truyền đạt là nhờ có phương pháp, kỹ thuật trao truyền đạt hiệu quả cao. Thế Tôn là người Thầy biết xây dựng lòng tự tin của người học trò và khai thác khả năng tiềm ẩn sẵn có của người học trò đó. Trong những trường hợp cần thiết, Thế Tôn đã tự thân khích lệ hay xác chứng thành quả đạt được mà người học trò đã thực hiện. Tài năng chỉ hóa hiện khi lòng tự tin được xác lập cộng chung pháp học đi đôi với pháp hành. Con người trong chừng mực nào đó có thể thiếu lòng tin với người khác nhưng vắng lòng tin của chính mình thì sẽ đi đến sự hủy diệt tất cả. Ngài chính là vị Thầy khuyến cáo Tăng chuíng không nên xem thường các vị Tỳ kheo trẻ tuổi, chính các vị là người rống tiếng rống con sư tử chúa tể sơn lâm trong cuộc hành trình giải thoát tự thân, chứng đắc các quả vị Thánh để khích lệ những người chưa chứng ngộ.
Chính áp dụng kỹ thuật truyền đạt này đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm khảm người học trò. Thiết lập lòng tự tin, khai mở khả năng tiềm ẩn, khích lệ người học trò đã được diễn dịch bằng những pháp thoại sống động dễ hiểu mà người Thầy vận dụng. Thế Tôn từng huấn thị “Ta là vị Phật đã thành, các người là Phật sẽ thành”. Điều đó cũng có ý nghĩa quan trọng đối với người học trò như là thông điệp nhắn gởi: “Tự thân tu tập tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ sự thật chân lý sẽ là nhân tố quyết định”:
“Ai sống ở đời này

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét