Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC-VIỆT NAM Y TỔ


HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC-VIỆT NAM Y TỔ
Dec 22, 2011 8:11 AMPublicPageviews 18 0
海尚懶翁黎有卓
越南醫祖

HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG LÊ HỮU TRÁC
VIỆT NAM Y TỔ
(1724 – 1791)
NGÀY GIỖ TỔ: 15.1 ÂM LỊCH

Hải Thượng Lãn Ông

Hải Thượng Lãn Ông ("Ông già lười Hải Thượng"[1]) là biệt hiệu của danh y Lê Hữu Trác[2][3] (11 tháng 12, 1720 – 1791). Ông tinh thông y học, văn chương, là danh nhân Việt Nam thế kỉ XVIII được nhiều người kính trọng.

Mục lục

Thân thế và chí hướng lập thân

Lê Hữu Trác sinh ngày 11 tháng 12 năm Giáp Thìn 1724 tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương (nay là xã Hoàng Hữu Nam, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên)[4]. Tuy nhiên, cuộc đời ông phần nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) gắn bó với ở quê mẹ thôn Bầu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh)[5]. Ông là con của ông Lê Hữu Mưu và bà Bùi Thị Thưởng[6]. Là người con thứ bảy nên ông còn được gọi là cậu Chiêu Bảy.
Dòng tộc ông vốn có truyền thống khoa bảng; ông nội, bác, chú (Lê Hữu Kiều), anh và em họ đều đỗ Tiến sĩ và làm quan to. Thân sinh của ông từng đỗ Đệ tam giáp Tiến sĩ, làm Thị lang Bộ Công triều Lê Dụ Tông, gia phong chức Ngự sử, tước Bá, khi mất được truy tặng hàm Thượng thư (năm Kỷ Mùi 1739). Khi ấy, Lê Hữu Trác mới 20 tuổi, ông phải rời kinh thành về quê nhà, vừa trông nom gia đình vừa chăm chỉ đèn sách, mong nối nghiệp gia đình, lấy đường khoa cử để tiến thân.
Nhưng xã hội bấy giờ rối ren, các phong trào nông dân nổi dậy khắp nơi. Chỉ một năm sau (1740), ông bắt đầu nghiên cứu thêm binh thư và võ nghệ, "nghiên cứu trong vài năm cũng biết được đại khái, mới đeo gươm tòng quân để thí nghiệm sức học của mình" (Tựa "Tâm lĩnh").
Chẳng bao lâu sau, ông nhận ra xã hội thối nát, chiến tranh chỉ tàn phá và mang bao đau thương, làm ông chán nản muốn ra khỏi quân đội, nên đã nhiều lần từ chối sự đề bạt. Đến năm 1746, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất, ông liền viện cớ về nuôi mẹ già, cháu nhỏ thay anh, để xin ra khỏi quân đội, thực sự "bẻ tên cởi giáp" theo đuổi chí hướng mới.

Theo đuổi nghề thuốc

Lê Hữu Trác bị bệnh từ lúc ở trong quân đội, giải ngũ về phải gánh vác công việc vất vả "trăm việc đổ dồn vào mình, sức ngày một yếu" (Lời tựa "Tâm lĩnh"), lại sớm khuya đèn sách không chịu nghỉ ngơi, sau mắc cảm nặng, chạy chữa tới hai năm mà không khỏi. Sau nhờ lương y Trần Độc, người Nghệ An là bậc lão nho, học rộng biết nhiều nhưng thi không đỗ, trở về học thuốc, nhiệt tình chữa khỏi.
Trong thời gian hơn một năm chữa bệnh, nhân khi rảnh rỗi ông thường đọc "Phùng thị cẩm nang" và hiểu được chỗ sâu xa của sách thuốc. Ông Trần Độc thấy lạ, bèn đem hết những hiểu biết về y học truyền cho ông. Vốn là người thông minh học rộng, ông mau chóng hiểu sâu y lý, tìm thấy sự say mê ở sách y học, nhận ra nghề y không chỉ lợi ích cho mình mà có thể giúp người đời, nên ông quyết chí học thuốc.
Hương Sơn, ông làm nhà cạnh rừng đặt tên hiệu "Hải Thượng Lãn ông". Hải Thượng là hai chữ đầu của tỉnh Hải Dương và phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là xã Bầu Thượng quê mẹ. "Lãn ông" nghĩa là "ông lười", ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi, của quyền thế, tự do nghiên cứu y học, thực hiện chí hướng mà mình yêu thích gắn bó.
Mùa thu năm Bính Tý (1754), Lê Hữu Trác ra kinh đô mong tìm thầy để học thêm vì ông thấy y lý mênh mông nhưng không gặp được thầy giỏi, ông đành bỏ tiền mua một số phương thuốc gia truyền, trở về Hương Sơn "từ khước sự giao du, đóng cửa để đọc sách" (Tựa "Tâm lĩnh"), vừa học tập và chữa bệnh. Mười năm sau tiếng tăm của ông đã nổi ở vùng Hoan Châu.
Sau mấy chục năm tận tụy với nghề nghiệp, Hải Thượng Lãn ông đã nghiên cứu rất sâu lý luận Trung y qua các sách kinh điển: Nội kinh, Nam kinh, Thương hàn, Kim quỹ; tìm hiểu nền y học cổ truyền của dân tộc; kết hợp với thực tế chữa bệnh phong phú của mình, ông hệ thống hóa tinh hoa của lý luận Đông y cùng với những sáng tạo đặc biệt qua việc áp dụng lý luận cổ điển vào điều kiện Việt Nam, đúc kết nền y học cổ truyền của dân tộc. Sau hơn chục năm viết nên bộ "Y tôn tâm lĩnh" gồm 28 tập, 66 quyển bao gồm đủ các mặt về y học: Y đức, Y lý, Y thuật, Dược, Di dưỡng. Phần quan trọng nữa của bộ sách phản ảnh sự nghiệp văn học và tư tưởng của Hải Thượng Lãn ông.

Lên kinh

Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43 (1782), ông nhận được lệnh chúa triệu về kinh. Lúc này ông đã 62 tuổi, sức yếu lại quyết chí xa lánh công danh, nhưng do theo đuổi nghiệp y đã mấy chục năm mà bộ "Tâm lĩnh" chưa in được, "không dám truyền thụ riêng ai, chỉ muốn đem ra công bố cho mọi người cùng biết, nhưng việc thì nặng sức lại mỏng, khó mà làm được" ("Thượng kinh ký sự"), ông hy vọng lần đi ra kinh đô có thể thực hiện việc in bộ sách. Vì vậy ông nhận chiếu chỉ của chúa Trịnh, từ giã gia đình, học trò rời Hương Sơn lên đường.
Ra kinh vào phủ chúa xem mạch và kê đơn cho thế tử Trịnh Cán, ông được Trịnh Sâm khen "hiểu sâu y lý" ban thưởng cho ông 20 xuất lính hầu, và bổng lộc ngang với chức quan kiểm soát bộ Hộ để giữ ông lại. Nhưng ông giả ốm không vào chầu, sau lại viện cớ tuổi già mắt hoa, tai điếc thường ốm yếu để được trọ ở ngoài. Bọn ngự y ghen tỵ với Lãn ông không chịu chữa theo đơn của ông, nên thế tử không khỏi, ông biết thế nhưng không hề thắc mắc với bọn thầy thuốc thiếu lương tâm này, mặt nữa ông không thật nhiệt tình chữa, kết quả để sớm thoát khỏi vòng cương tỏa của quyền thần, danh lợi.
Thời gian ở kinh đô, ông nhiều lần xin về thăm cố hương Hải Dương, nhưng mãi đến tháng 9 năm 1782, sau chúa Trịnh mới cho phép ông về. Không lâu sau, ông lại có lệnh triệu về kinh vì Trịnh Sâm ốm nặng. Về kinh ông chữa cho Trịnh Sâm khỏi và cũng miễn cưỡng chữa tiếp cho Trịnh Cán. Trịnh Sâm lại trọng thưởng cho ông. Ông bắt buộc phải nhận nhưng bụng nghĩ: "Mình tuy không phải đã bỏ quên việc ẩn cư, nhưng nay hãy tạm nhận phần thưởng rồi sau vứt đi cũng được" ("Thượng kinh ký sự").
Sau khi Trịnh Sâm chết vì bệnh lâu ngày sức yếu, Trịnh Cán lên thay, nhưng Trịnh Cán cũng ốm dai dẳng nên "khí lực khô kiệt", khó lòng khỏe được. Do nóng lòng trở về Hương Sơn, nhân có người tiến cử một lương y mới, Lê Hữu Trác liền lấy cớ người nhà ốm nặng rời kinh. Ngày 2 tháng 11 (năm 1782) Lãn ông về đến Hương Sơn.

Sự nghiệp cuối đời

Năm 1783 ông viết xong tập "Thượng kinh ký sự" bằng chữ Hán tả quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Tập ký ấy là một tác phẩm văn học vô cùng quý giá. Mặc dầu tuổi già, công việc lại nhiều: chữa bệnh, dạy học, nhưng ông vẫn tiếp tục chỉnh lý, bổ sung, viết thêm (tập Vân khí bí điển, năm 1786) để hoàn chỉnh bộ "Tâm lĩnh". Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác không chỉ là danh y có cống hiến to lớn cho nền y học dân tộc, ông còn là một nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng lớn của thời đại.
Ông qua đời vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) tại Bầu Thượng, (nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh), thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc xã Sơn Trung, huyện Hương Sơn.
Lê Hữu Trác là đại danh y có đóng góp lớn cho nền y học dân tộc Việt Nam, kế thừa xuất sắc sự nghiệp "Nam dược trị Nam nhân" của Tuệ Tĩnh thiền sư. Ông để lại nhiều tác phẩm lớn như Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 22 tập, 66 quyển chắt lọc tinh hoa của y học cổ truyền, được đánh là công trình y học xuất sắc nhất trong thời trung đại Việt Nam và các cuốn Lĩnh Nam bản thảo, Thượng kinh ký sự không chỉ có giá trị về y học mà còn có giá trị văn học, lịch sử, triết học.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Lê Hữu Trác hiệu là Hải Thượng Lãn ông, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tý (11-12-1720) tại thôn Văn Xá, làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hải Dương. Nay là xã Hoàng Hữu Nam huyện Yên Mỹ, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sống nhiều (từ năm 26 tuổi đến lúc mất) ở quê mẹ xứ Bầu Thượng, xã Tĩnh Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, nay là xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn và cũng qua đời ở đây vào ngày rằm tháng giêng năm Tân Hợi (1791) thọ 71 tuổi. Mộ ông nay còn nằm ở Khe nước cạn chân núi Minh Từ thuộc huyện Hương Sơn (cách phố Châu huyện lỵ Hương Sơn 4 cây số).
Phát huy truyền thống của Tuệ Tĩnh, ông đã sưu tầm phát hiện thêm 300 vị thuốc nam (Lĩnh Nam bản thảo) đồng thời tổng hợp thêm 2854 phương thuốc kinh nghiệm phổ biến cho nhân dân áp dụng "Hành giản trân nhu và Bách gia trân tàng". Ông cũng đã có những sáng tạo đặc sắc trong việc vận dụng lý luận y học vào thực tiễn Việt Nam.
Cái quý nhất trong việc đào tạo lớp lương y mới, Lãn Ông chú trọng xây dựng y đức người thầy thuốc, ông thường nói 
"Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công"

Những lời răn của Hải Thượng Lãn Ông
"Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên bảo vệ sinh mạng con người, phải lo cái lo của người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc cứu sống mạng người làm nhiệm vụ của mình không nên cầu lợi kể công...
"Thường thấy kẻ làm thuốc, hoặc nhân bệnh cha mẹ người ta ngặt nghèo, hoặc bắt bí người ta lúc đêm tối, trời mưa, có bệnh nguy cấp; bệnh dễ chữa bảo là khó chữa, bệnh khó chữa bảo là không chữa được, giở lối quỉ quyệt ấy nhằm thoả mãn yêu cầu, rắp tâm như thế là bất lương. Chữa cho nhà giàu sang, thì tỏ tính sốt sắng, mong được lợi nhiều, chữa cho nhà nghèo hèn thì ra ý lạnh nhạt, sống chết mặc bay. Than ôi, đem nhân thuật làm chước dối lừa, đem lòng nhân đổi ra lòng buôn bán. Như thế thì người sống trách móc, người chết oán hờn không thể tha thứ được...
"Nghề làm thuốc là nhân thuật, thầy thuốc hẳn phải lấy việc giúp người làm điều hay. Cứu được một người thì khoa chân, múa tay cho mọi người biết) nhỡ có thất bại thì giấu đi. Thường người ta hay giấu các điều xấu của mình mà không đem sự thực nói với người khác. Riêng tôi dám nói là thoát khỏi những thói đó chăng, là vì tôi không theo con đường khoa cử nối dõi nghiệp nhà, chuyển hướng ra làm thuốc nên chỉ muốn hết sức làm những việc đáng làm, may ra khỏi hổ thẹn với đất trời, đâu dám e ngại sự chê khen, để phải hối hận với bổn phận...
"Nghĩ thật sâu xa, tôi hiểu rằng thầy thuốc là người bảo vệ sinh mạng con người. sống chết trong tay mình nắm, họa phúc trong tay mình giữ. Thế thì đâu có thể kiến thức không đầy đủ, đức hạnh không trọn vẹn, tâm hồn không rộng lớn, hành động không thận trọng mà làm liều lĩnh học đòi cái nghề cao quí đó chăng".

8 tội người thầy thuốc cần tránh:
- Có bệnh xem xét đã rồi mới cho thuốc, vì ngại đêm mưa vất vả không chịu thăm mà đã cho phương, đó là tội lười.
- Có bệnh cần dùng thứ thuốc nào đó mới cứu được nhưng sợ con bệnh nghèo túng không trả được vốn nên chỉ cho thuốc rẻ tiền, đó là tội bủn xỉn.
- Khi thấy bệnh chết đã rõ, không bảo thực lại nói lơ mơ để làm tiền, đó là tội tham lam.
- Thấy bệnh dễ chữa nói dối là khó chữa, dọa người ta sợ để lấy nhiều tiền, đó là tội lừa dối.
- Thấy bệnh khó đáng lẽ nói thực rồi hết lòng cứu chữa nhưng lại sợ mang tiếng không biết thuốc, vả lại chưa chắc chắn đã thành công, không được hậu lời nên không chịu chữa đến nỗi người ta bó tay chịu chết, đó là tội bất nhân.
- Có trường hợp người bệnh ngày thường có bất bình với mình khi mắc bệnh phải nhờ đến mình liền nghĩ ra ý nghĩ oán thù không chịu chữa hết lòng, đó là tội hẹp hòi.
- Thấy kẻ mồ côi goá bụa, người hiền, con hiếm mà nghèo đói ốm đau cho là chữa mất công vô ích không chịu hết lòng, đó là tội thất đức.
- Lại như xét bệnh còn lơ mơ, sức học còn non đã cho thuốc chữa bệnh, đó là tội dốt nát.

Hải Thượng Lãn ông đã đề ra 9 điều dạy trong "Y huấn cách ngôn" để rănn dạy người thây thuốc mà hiện nay vẫn còn nguyên giá trị, thí dụ:
- Phàm người mời đi thăm bệnh, nên tùy bệnh kíp hay không mà sắp đặt thăm trước hay sau. Chớ nên vì giàu sang hay nghèo hèn mà nơi đến trước, chỗ tới sau hoặc bốc thuốc lại phân biệt nơi hơn kém.
- Khi đến xem bệnh ở nhà nghèo túng, hay những người mồ côi, goá bụa hiếm hoi, càng nên chǎm sóc đặc biệt; vì những người giàu sang không lo không có người chữa; còn người nghèo hèn, thì không đủ sức đón được thày giỏi, vậy ta để tâm một chút, họ sẽ được sống một đời, còn những người con thảo, vợ hiền, nghèo mà mắc bệnh, ngoài việc cho thuốc mà không có ăn, thì vẫn đi đến chỗ chết.
- Khi chữa bệnh cho ai khỏi rồi, chớ có mưu cầu quà cáp, vì những người nhận của người khác cho thường hay sinh ra nể nang, huống chi đối với những kẻ giàu sang, tính khí thất thường mà mình cầu cạnh thường hay bị khinh rẻ. Còn việc tâng bốc người ta để cầu lợi thường hay sinh chuyện. Cho nên nghề thuốc là nghề thanh cao, ta càng phải giữ khí tiết cho trong sạch.
                                                                                                        (Anh Nguyễn, theo Danh nhân Việt)

Hải Thượng Lãn Ông: Tấm gương sáng về y đức - y đạo - y thuật của Y học cổ truyền Việt Nam
Trong không khí tưng bừng của Lễ hội truyền thống Y dược học cổ truyền Việt Nam - Rằm tháng Giêng và Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, Bộ Y tế, Trung ương Hội Đông y và UBND tỉnh Hà Tĩnh tổ chức trọng thể lễ dâng hương tưởng niệm, kỷ niệm 220 năm ngày mất của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông.
Như chúng ta đều biết, Quý Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác sinh ngày 12/11 năm Canh Tý (11/12/1720), nguyên quán Văn Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, tỉnh Hưng Yên (nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với nghề y, ông được nhân dân và ngành y tế suy tôn là Đại danh y. Ông luôn tâm niệm: “Đạo làm thuốc là một nhân thuật chuyên lo tính mạng con người, phải lo cái lo của con người, vui cái vui của người, chỉ lấy việc chữa bệnh cứu người làm nhiệm vụ của mình, không được mưu lợi, kể công”. Ông phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện tâm niệm: “Tôi đã hiến thân cho nghề thuốc nên lúc nào cũng dồn hết khả năng trước thuật rộng rãi để dựng nên ngọn cờ đỏ thắm giữa y trường”. Ông đã sưu tầm, phát hiện hơn 300 vị thuốc Nam (Lĩnh Nam bản thảo), tổng hợp 2.854 phương thuốc kinh nghiệm, cùng trước tác bộ sách đồ sộ Hải Thượng Y tông Tâm lĩnh gồm 66 quyển, chắt lọc những tinh hoa của y học cổ truyền. Ông luôn chú trọng xây dựng y đức, đề ra 9 điều trong “Y huấn cách ngôn” răn dạy người thầy thuốc, hiện nay vẫn còn nguyên giá trị. Cuộc đời của Đại y tôn Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác là hình ảnh cao đẹp của người thầy thuốc với kiến thức uyên thâm, tinh thần trách nhiệm cao cả, đức hy sinh, nhẫn nại, tận tâm, lòng thương yêu người bệnh vô bờ bến. Ông thật xứng đáng là người đã dựng “ngọn cờ đỏ thắm” trong nền y học nước nhà, là tấm gương sáng về y đức - y đạo - y thuật cho muôn đời sau noi theo.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cấp ủy và chính quyền các địa phương, thời gian qua, toàn thể các cán bộ, công chức, viên chức và những người hoạt động trong lĩnh vực y dược cổ truyền trong cả nước đã không ngừng học hỏi vươn lên nhằm phát huy truyền thống của các thế hệ đi trước, đóng góp xây dựng nền y dược cổ truyền Việt Nam ngày một phát triển, khoa học và đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ tốt nhu cầu chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đến nay, nền y dược học cổ truyền trong nước đã đạt được những kết quả:
- Đã đưa y học cổ truyền vào hệ thống y tế quốc gia, mạng lưới khám chữa bệnh bằng y dược học cổ truyền, từng bước củng cố và phát triển.
- Chất lượng khám chữa bệnh bằng y dược học cổ truyền ngày một nâng cao, số người bệnh được khám, chữa bệnh bằng y dược học cổ truyền, kết hợp y dược học cổ truyền với y học hiện đại ngày càng tăng.
- Công tác đào tạo cán bộ y dược học cổ truyền được quan tâm đầu tư, phát triển. Học viện Y dược học cổ truyền Việt Nam được thành lập, thu hút học sinh, sinh viên năm sau cao hơn năm trước.
- Dược liệu và thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu Đông y đã và đang phát triển mạnh mẽ.
Trong thời gian tới, thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng số 24-CT/TW ngày 4/7/2008 và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 2166/QĐ-TTg ngày 30/11/2010 về Kế hoạch phát triển nền Đông y Việt Nam đến năm 2020, nhằm tiếp tục phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được, Bộ Y tế chủ trương triển khai các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Về tổ chức, quản lý: Nghiên cứu thành lập cơ quan quản lý nhà nước về y dược cổ truyền với chức năng, nhiệm vụ toàn diện, đầy đủ hơn.
2. Về phát triển hệ thống khám chữa bệnh: Đẩy mạnh xây mới, nâng cấp, đầu tư trang thiết bị cho các bệnh viện y dược cổ truyền theo hướng đa khoa; củng cố và phát triển khoa y dược cổ truyền tại các bệnh viện, tổ y dược cổ truyền tại Phòng khám đa khoa và trạm y tế. Xây dựng chính sách khuyến khích thành lập và phát triển các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh y dược cổ truyền ngoài công lập.
3. Về phát triển nguồn nhân lực: Nâng cao năng lực đào tạo nguồn nhân lực y dược cổ truyền các cấp (trung học, đại học, trên đại học). Tổ chức nhiều loại hình: chính quy, đào tạo liên tục, đào tạo liên thông, liên kết đào tạo, đào tạo theo cử tuyển đối với các vùng đặc biệt khó khăn, đào tạo kèm cặp trực tuyến (với những lương y, lương dược giỏi, gia truyền).
4. Nâng cao chất lượng dược liệu, thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu Đông y: Xây dựng đề án phát triển dược liệu, thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Tổ chức các vùng nuôi, trồng dược liệu, bảo đảm cung cấp đủ nguyên liệu cho các cơ sở chế biến dược liệu, sản xuất thuốc từ dược liệu trong nước và xuất khẩu, ưu tiên các loại cây, con có hiệu quả chữa bệnh tốt, giá trị kinh tế cao, nhu cầu sử dụng lớn. Củng cố và phát triển các trung tâm nghiên cứu, nuôi trồng dược liệu tại các vùng sinh thái phù hợp. Tổ chức sản xuất thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu Đông y đạt tiêu chuẩn sản xuất GMP - WHO. Phát triển thị trường kinh doanh dược liệu và thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu Đông y.
5. Về cơ chế, chính sách: Có chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với đầu tư xây dựng cơ sở khám chữa bệnh, đào tạo y dược cổ truyền; phát triển nuôi trồng dược liệu; sản xuất thuốc Đông y, thuốc từ dược liệu Đông y. Khuyến khích, hỗ trợ phát huy những bài thuốc hay, cây thuốc quý, những kinh nghiệm phòng và chữa bệnh bằng y dược cổ truyền. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực y dược học cổ truyền. Mở rộng hợp tác quốc tế về y dược cổ truyền; Có chính sách ưu đãi, hỗ trợ phát triển y dược cổ truyền Việt Nam ra nước ngoài.
6. Tăng cường vai trò của Hội Đông y Việt Nam: Phát huy vai trò của Hội Đông y Việt Nam trong bảo tồn và phát triển y dược cổ truyền, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn. Hỗ trợ thiết thực để Hội Đông y các cấp tăng cường hoạt động.
Kỷ niệm 220 năm ngày mất của Hải Thượng Lãn Ông, với truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", "Tôn sư trọng đạo", thế hệ hành nghề y dược học cổ truyền chúng ta hôm nay nguyện noi gương sáng y đức - y đạo - y thuật của Đại y tôn, kế thừa, bảo tồn và phát triển nền y dược học cổ truyền Việt Nam, kết hợp với y dược học hiện đại, xây dựng nền y dược học Việt Nam hiện đại - khoa học - dân tộc - đại chúng.

Chuyện tình cảm động

của Hải Thượng Lãn Ông

Biết được cuộc đời riêng tư trắc trở của bà mà nguyên nhân do mình tạo ra, Lê Hữu Trác rất hối hận. Ông định mời bà về Hương Sơn (Hà Tĩnh), lập chùa và chu cấp cho bà để bà yên tâm tu nốt quãng đời còn lại, để tuổi già còn có chỗ cậy.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720 - 1791) quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, Hải Dương (nay là huyện Mỹ Văn, Hưng Yên) nhưng ông về quê mẹ là làng Tình Diệm, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh sinh sống bằng nghề bốc thuốc ngay từ khi còn trẻ. Ông lấy hiệu là Lãn Ông tức ông già lười.
Tuy nhiên, ông chỉ lười công danh, lười đua chen ở chốn quan trường còn sự nghiệp y học thì ông rất chăm chỉ nghiên cứu và trở thành danh y bậc nhất thời bấy giờ. Ông có bộ sách y học đồ sộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 65 quyển đúc kết kinh nghiệm 40 năm bốc thuốc chữa bệnh cứu người, một bộ sách y học lớn nhất từ trước tới nay.
Cũng vì tiếng tăm của  ông vang dội đến tận Kinh đô mà năm 1781 chúa Trịnh Sâm triệu ông ra Thăng Long để chữa bệnh cho Thế tử Trịnh Cán. Ông đã ghi chép lại toàn bộ  chuyến đi này trong tác phẩm Thượng Kinh ký sự  (Ký sự lên Kinh). Đây là một tác phẩm văn chương đặc sắc, đề cập đến đời sống sinh hoạt  của tầng lớp vua chúa, quan lại và thị dân ở chốn Kinh thành vào cuối  thế kỷ XVIII.
Trong chuyến lên Kinh lần này, Lê Hữu Trác tình cờ gặp lại người tình xưa, trong một trường hợp rất đặc biệt. Nguyên do là, khi còn nhỏ ở nhà, Lê Hữu Trác đã được bố mẹ hỏi cho một cô gái con nhà quan làm vợ. Các thủ tục dạm hỏi đã hoàn tất, chỉ chờ ngày cưới.
Nhưng sau đó do gặp trắc trở, ông từ hôn rồi vào quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) sinh sống. Cô gái đó sau này không lấy ai nữa, vì cho rằng mình đã có nơi gá nghĩa rồi. Cô ở nhà chăm sóc cha mẹ. Khi cha mẹ mất, cô gửi thân vào chốn cửa thiền. Hơn 40 năm sau, bây giờ cô gái năm xưa đã trở thành một nhà sư già. Bà đi khuyến giáo thập phương để về đúc chuông chùa làng và tình cờ gặp ông trong một nhà trọ ở Kinh thành.
Biết được cuộc đời riêng tư trắc trở của bà mà nguyên nhân do mình tạo ra, Lê Hữu Trác rất hối hận. Ông định mời bà về Hương Sơn, lập chùa và chu cấp cho bà để bà yên tâm tu nốt quãng đời còn lại, để tuổi già còn có chỗ cậy dựa. Nhưng bà không chịu vì còn phải ở quê để chăm lo hương khói phần mộ của cha mẹ. Lê Hữu Trác có làm một bài thơ để tỏ lòng mình (nguyên văn chữ Hán, bản dịch của Bùi Hạnh Cẩn): "Vô tâm nên nỗi lỡ người ta/Nay lại nhìn nhau luống thẫn thờ/Một nụ cười tình, châu lệ lạnh/Đôi tròng xuân cạn nét tài hoa/Đời nay xin kết anh em ngãi/Kiếp tới nên tròn phận thất gia/Ta chẳng phụ người, người nỡ phụ/Đành thôi như thế, biết sao mà!".
Ông có ý bù đắp cho bà nhưng không có cách nào. Khi bà ngỏ ý: "Nghe nói ở Nghệ An áo quan tốt, muốn mua một cỗ", Lê Hữu Trác đã cho người đi tìm ngay, nhưng chưa mua được. Kịp đến khi chuẩn bị về quê, ông đã gửi lại 5 quan tiền để nhờ người mua một cỗ áo quan tặng bà.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét