Ga Tháp Chàm đầu thế kỷ XX là một quần thể hoạt động chuyên ngành đường sắt gọi là Sở Hỏa xa bao gồm: Nhà ga, Khu bảo trì, sửa chữa đầu máy toa xe, Khu ở công chức; người dân quen gọi là Đề-pô Hỏa xa Tháp Chàm. Gia Lâm (Hà Nội), Vinh (Nghệ An), Đà Nẵng (Quảng Nam), Dĩ An (Sài Gòn).
Đề-pô Hỏa xa Tháp Chàm là nơi hội tụ nhiều cá nhân ưu tú trong và ngoài tỉnh về làm việc như các ông Đoàn Quế, Nguyễn Hữu Hương, Trần Kỷ, Trần Hữu Duyệt, Lê Trọng Mân, Trần Hữu Chương, Trần Đình Giáp… Họ là hạt nhân tuyên truyền các tư tưởng chính trị tiến bộ.
Sau sự kiện ngày 3 - 2 -1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các chi bộ Tân Việt tại Ninh Thuận chuyển thành các chi bộ Đảng Cộng sản theo chủ trương chung của cả nước, trong đó có chi bộ Đề-pô Hỏa xa Tháp Chàm. Có thể nói, vừa ra đời, chi bộ Đảng tại Đề-pô Hỏa xa Tháp Chàm đã tổ chức đấu tranh trực diện với Pháp. Sau này, những công nhân, đảng viên cùng với đông đảo đồng bào, đồng chí ở Ninh Thuận đoàn kết đấu tranh cho đến ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam 30 - 4 - 1975. Kể từ những hoạt động khởi đầu của những người công nhân yêu nước, cho đến nay hình ảnh Đề-pô Hỏa xa Tháp Chàm vẫn là hình ảnh đẹp trong lòng nhân dân Tháp Chàm, Ninh Thuận và ngành Đường Sắt Việt Nam.
Người Chăm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Người Chăm
Tổng dân số
Khu vực đông người sinh sống
Ngôn ngữ
Tín ngưỡng
Nhóm dân tộc liên quan
|
Phụ nữ người Chăm
với trang phục truyền thống bên tháp cổ |
400.000 |
|
tiếng Chăm, tiếng Khmer, tiếng Việt, tiếng Mã Lai |
Đa phần theo Hồi giáo dòng Sunni. Một bộ phận theo Ấn Độ giáo. |
Utsul, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru, Mã Lai,Indonesia, Philippines |
Người Chăm, còn gọi là
người Chàm,
người Chiêm,
người Chiêm Thành,
người Hời..., hiện cư ngụ chủ yếu tại
Campuchia,
Việt Nam,
Malaysia,
Thái Lanvà
Hoa Kỳ. Dân số tại Việt Nam theo điều tra dân số 1999 là 132.873 người; theo tài liệu của Ủy ban Dân tộc Chính phủ Việt Nam năm 2008 là khoảng hơn 145.000 người, xếp thứ 14 về số lượng trong cộng đồng
các dân tộc Việt Nam.
Lịch sử
-
Người Chăm là một dân tộc đã từng có một quốc gia độc lập, hùng mạnh trong lịch sử; có nền văn hóa phát triển, và là hậu duệ của các cư dân nền văn hóa Sa Huỳnh thời kì đồ sắt. Các cộng đồng người Chăm ở Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Hoa Kì... có quan hệ đồng tộc, đồng tôn. Ở Việt Nam người Chăm có mối liên hệ gần gũi với các dân tộc nói các tiếng cùng thuộc nhóm ngôn ngữ Mã lai-Đa đảo như Gia Rai, Ê Đê, RaGlai và Chu Ru.
Trước thế kỷ thứ 7 có vương quốc Lâm Ấp từ năm Sơ Bình thứ 3
nhà Hán (
192) đến năm Đại Nghiệp thứ 1
nhà Tùy (
605). Sau năm 605, tình hình nước Chăm Pa không rõ cho đến thế kỷ thứ 8. Các tên gọi khác nhau của vương quốc này theo văn bia
tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ là
Campanagara,
Nagara Campa,
Nagar Cam. Còn sử sách Trung Quốc gọi là
Lâm Ấp quốc (phiên âm theo tiếng Bắc Kinh hiện nay là
Lin-yi-guo),
Chiêm Bà Quốc,
Hoàn Vương Quốc và
Chiêm Thành quốc. Vương quốc này bắt đầu suy tàn từ đầu thế kỷ 15 sau cuộc can thiệp do quân đội
nhà Minh dưới sự chỉ huy của vua
Vĩnh Lạc Đế đối với ba triều đài:
nhà Hậu Trần (Đại Việt),
nhà Hồ (Đại Ngu) và
triều đại Vijaya (Chăm Pa). Sau khi quân đội nhà Minh rút về, vương quốc Chăm Pa được phục hồi nhưng chia thành 2 tiểu vương quốc: Tiểu vương quốc Vijaya (Đồ Bàn: 1428-1471) và Tiểu vương quốc Panduranga (Phan Rang: 1433-1832). Tiểu vương quốc Vijaya bị quân đội
Đại Việt tiêu diệt dưới sự chỉ huy của vua
Lê Thánh Tông để thôn tính đất đai vào năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê tức năm
1471). Năm đó, tiểu vương quốc Panduranga cũng trở thành chư hầu của Đại Việt. Năm Hiển Tông thứ 2 chúa Nguyễn (năm Chính Hòa thứ 14 nhà Lê tức năm
1693), Nguyễn Hữu Cảnh đã một lần chinh phục Tiểu vương quốc Panduranga, đổi tên Chiêm Thành quốc thành Thuận Thành trấn, rồi đổi Thuận Thành trấn thành Bình Thuận phủ. Nhưng, năm 1694, trong khi Nguyễn Hữu Cảnh tây chinh đánh Campuchia, tướng người Chăm tên Ốc Nha Đạt và tướng người Thanh tên A Ban đã tập hợp được đông đảo lực lượng người Chăm Pa, nổi dậy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng chúa Nguyễn tại đây. Chúa Nguyễn (vua Nguyễn Hiển Tông tức Nguyễn Phúc Chu) đã bất đắc dĩ cầu hòa với người Chăm Pa và cho phép người Chăm Pa phục hồi Thuận Thành trấn (Khu Tự trị Chăm Pa). Hòa ước giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm Pa được ghi rõ trong Nghị Định Ngũ Điều vào năm Hiển Tông thứ 21 (năm Vĩnh Thạnh thứ 8
nhà Lê tức năm
1712) và được duy trì cho đến năm
Minh Mạng thứ 13 (
1832). Sau cải thổ quy lưu (giải thể khu tự trị) vào năm 1832, một số người Chăm liên minh với Lê Văn Khôi, nổi dậy để phục hồi Thuận Thành trấn nhưng kết thúc thất bại. Hậu duệ của chúa Chăm Pa có ông Dụng Gạch, một vị hoàng tử anh hùng, phó chủ tịch ủy ban hành chính lâm thời huyện Hòa Đa (Bắc Bình ngày nay) phụ trách miền núi sau
Cách mạng tháng Tám.
Chăm Pa thừa kế Lâm Ấp được thành lập sau cuộc nổi dậy của một viên quan địa phương (quan Công Tao) tên là
Khu Liên (
Kiu-lien) chống lại chính quyền
nhà Hán năm 192 tại huyện Tượng Lâm, thuộc quận Nhật Nam (ngày nay là
Huế). Lãnh thổ của Chăm Pa ngày nay thuộc thành phố
Đà Nẵng và các tỉnh
Quảng Bình,
Quảng Trị,
Thừa Thiên-Huế,
Quảng Nam,
Quảng Ngãi,
Bình Định,
Phú Yên,
Khánh Hòa,
Ninh Thuận,
Bình Thuận và một số vùng Tây Nguyên. Lâm Ấp chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa và tôn giáo
Trung Quốc nhưng sau các cuộc chiến với quốc gia láng giềng
Phù Nam, cũng như sự thôn tính lãnh thổ của quốc gia này vào
thế kỷ 4, đã hòa trộn văn hóa
Ấn Độ. Theo văn bia tiếng Phạn tại Mỹ Sơn, vua Chăm Pa và vua Campuchia đều là hậu duệ của hoàng tử Asvattaman, một anh hùng lưu vong bạc mệnh trong sử thi Ấn Độ
Mahabarata thuộc nhà Kuru. Riêng, các chúa Panduranga thì thuộc dõng Pandu nên Chăm Pa (Vijaya, thuộc nhà Kuru) và Panduranga (thuộc nhà Pandu) vốn là 2 quốc gia thù địch với nhau. Sử sách Trung Quốc luôn ghi rõ 2 nước Chiêm Thành (Chăm Pa) và Tân Đồng Long (Panduranga) là 2 quốc gia riêng.
Lịch sử của vương quốc Chăm Pa là các cuộc xung đột với
Trung Quốc,
Đại Việt,
Khmer và
Mông Cổ, cũng như xung đột nội bộ. Chính là do các cuộc xung đột này mà Chăm Pa mất dần lãnh thổ vào tay Đại Việt, một quốc gia có tổ chức chính quyền và quân sự hoàn hảo hơn. Chăm Pa trong quá khứ là một nước chư hầu của các
triều đại phong kiến Trung Quốc và Đại Việt nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hóa và sự toàn vẹn lãnh thổ. Người Chăm Pa là những chiến binh giỏi đã sử dụng địa hình đồi núi để chiếm ưu thế. Năm Hồng Đức thứ 2 nhà Lê (
1471), Tiểu vương quốc Vijaya chịu tổn thất nặng nề trong cuộc chiến với Đại Việt dưới triều đại vua
Lê Thánh Tông. Khoảng 60.000 quân Chăm Pa bị giết và 30.000 bị bắt làm tù binh. Ngược lại, Tiểu vương quốc Panduranga tiếp tục phát triển dưới sự bảo trợ của chúa Nguyễn và vua Gia Long (Nguyễn Thế Tổ) trong các vùng thung lũng Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Tuy nhiên vua Minh Mạng đã không quan tâm Chăm Pa như vua cha nữa và thủ tiêu cơ chế tự trị của Thuận Thành trấn vào năm Minh Mạng thứ 13 nhà Nguyễn (
1832).
Ngôn ngữ
Tiếng Chăm thuộc
nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Đa đảo (
Malayo-Polynesian) của
hệ ngôn ngữ Nam Đảo (
Autronesian).
Dân số và cư trú
Người Chăm được xác định là cư dân bản địa ở khu vực
duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam và đã có quá trình định cư lâu đời ở khu vực này. Trải qua hàng ngàn năm, dưới những biến cố lịch sử, xã hội mà chủ yếu là do chiến tranh và mẫu thuẫn nội bộ, người Chăm không còn cư trú tập trung ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ mà phân bố rộng rãi ở khắp các tỉnh phía Nam Việt Nam và một số các quốc gia khác.
Hiện nay tổng số người Chăm trên thế giới khoảng 400.000 người, phân bố chủ yếu ở
Campuchia,
Việt Nam,
Malaysia,
Thái Lan và
Hoa Kỳ. Cộng đồng Chăm lớn nhất thế giới là vào khoảng trên 217.000 người tại Campuchia, được gọi là Khmer Islam; kế đến là Việt Nam. Malaysia có trên 10.000 người, Thái Lan khoảng 4.000 người và Hoa Kỳ trên 3.000 người
[cần dẫn nguồn]...
Một số người Chăm di cư sang các nước khác, như tộc
Utsul ở
đảo Hải Nam, đến bang Terengganu của
Malaysia. Trong thế kỷ 20, nhiều người Chăm hoặc gốc Chăm di cư sang
Hoa Kỳ và các nước
phương Tây khác. Người Chăm ở
Lào có hơn 800 người, trong đó có 600 người sống ở thủ đô Viêng-chăn, cộng đồng này di cư từ Campuchia do sự diệt chủng của
Khơ-me Đỏ[3].
Phân bố dân cư ở Việt Nam
Trên lãnh thổ Việt Nam có khoảng 145.235 người Chăm sinh sống, sống rải rác ở các tỉnh phía Nam như
Bình Định,
Phú Yên,
Khánh Hòa,
Ninh Thuận,
Bình Thuận,
Đồng Nai,
Tây Ninh,
Thành phố Hồ Chí Minh,
An Giang,... Do đặc điểm cư trú, tính chất tôn giáo và sắc thái văn hóa mang tính vùng miền, người Chăm ở Việt Nam được chia thành 3 nhóm cộng đồng chính là:
Chăm Hroi;
Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận và
Chăm Nam Bộ.
Nhóm Chăm Hroi bao gồm những người Chăm hiện đang sống rải rác từ Bình Định tới Khánh Hòa, chủ yếu là ở Phú Yên và Bình Định; tổng số khoảng 20.500 người. Người Chăm Hroi có nguồn gốc từ những người Chăm cổ là một bộ phận của cộng đồng Chăm Việt Nam và từ lâu được gọi là Chăm Hroi. Người Chăm Hroi theo đạo Balamôn.
Nhóm Chăm Ninh Thuận - Bình Thuận gồm những người Chăm cư trú ở Ninh Thuận, Bình Thuận, có tên gọi là Campaduraga; tổng số khoảng 98.000 người (Ninh Thuận: 66.000; Bình Thuận: 32.000), đây là nhóm cộng đồng Chăm lớn nhất chiếm khoảng 67,60% tổng số người Chăm ở Việt Nam. Người Chăm Ninh Thuận-Bình Thuận theo đạo Bàlamôn và Hồi giáo Bani.
Nhóm Chăm Nam Bộ bao gồm những người Chăm sinh sống chủ yếu ở An Giang, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh
Đông Nam Bộ; tổng số khoảng 26.700 người, cư trú ở các tỉnh như: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Tây Ninh, An Giang, Kiên Giang, Bình Dương, Bình Phước,... trong đó tập trung chủ yếu ở An Giang và thành phố Hồ Chí Minh. Người Chăm ở đây có cùng nguồn gốc với người Chăm Hroi và người Chăm ở Ninh Thuận - Bình Thuận, nhưng do nguyên nhân lịch sử, nhiều người Chăm đã rời Việt Nam đến các nước như Campuchia, Thái Lan, Malaysia vào những thế kỷ trước. Từ cuối thế kỷ thứ XVIII đến đầu thế kỷ thứ XX, một bộ phận người Chăm ở Campuchia mâu thuẫn với người Khmer bản địa và sự ngược đãi của chính quyền Campuchia nên đã tìm về cư trú ở An Giang và Tây Ninh tạo nên cộng đồng người Chăm ở hai tỉnh này. Những năm sau đó, một bộ phận nhỏ người Chăm này chuyển đến một số tỉnh khác ở Nam Bộ để sinh sống. Người Chăm Nam Bộ theo Hồi giáo chính thống.
Theo
Tổng điều tra dân số và nhà ở năm
2009, người Chăm ở Việt Nam có dân số 161.729 người, cư trú tại 56 trên tổng số 63
tỉnh,
thành phố. Người Chăm cư trú tập trung tại các tỉnh:
Ninh Thuận (67.274 người, chiếm 41,6 % tổng số người Chăm tại Việt Nam),
Bình Thuận (34.690 người, chiếm 21,4 % tổng số người Chăm tại Việt Nam),
Phú Yên (19.945 người),
An Giang (14.209 người),
thành phố Hồ Chí Minh (7.819 người),
Bình Định (5.336 người),
Đồng Nai (3.887 người),
Tây Ninh (3.250 người)
[2]
Tín ngưỡng, Tôn giáo
Tôn giáo đầu tiên
[cần dẫn nguồn] của Chămpa là 1 dạng của
Ấn giáo Shaivite, tới từ Ấn Độ qua đường biển. Khi các thương gia Ả Rập dừng chân ở miền duyên hải Trung bộ Việt Nam trên đường tới Trung Hoa,
Hồi giáo (Islam) bắt đầu ảnh hưởng tới văn hóa của người Chăm.
Không rõ chính xác khi nào Hồi giáo tới Champa nhưng các di chỉ ngôi mộ có niên đại vào thế kỷ 11 đã được phát hiện. Nhìn chung người ta cho rằng Hồi giáo tới Đông Dương nhiều sau khi đã tới Trung Quốc trong suốt thời kì
nhà Đường (618–907), và các nhà buôn Ả rập trong vùng đã tiếp xúc trực tiếp với người Chăm chứ không phải với các dân tộc khác. Điều này có thể giải thích tại sao chỉ có người Chăm theo Hồi giáo một cách truyền thống trong vùng Đông Dương.
Đa số người Chăm, đặc biệt là ở
Cam-pu-chia, theo Hồi giáo và duy trì các trụ cột của nó bao gồm cả cầu nguyện năm lần một ngày, ăn chay trong tháng Ramadan và thực hiện hành hương hajj đến thánh địa
Mecca. Từ nhiều năm nay, các đại diện từ Campuchia đã tham gia vào cuộc thi quốc tế ngâm thơ
Kinh Qur'an tại Kuala Lumpur. Các cộng đồng người Hồi giáo Chăm ở Campuchia điều hành các trường học tôn giáo, và được đứng đầu bởi một Mufti. Tuy nhiên, một nhóm nhỏ người Chăm, tự gọi mình Kaum Jumaat, theo một sự thích nghi thần học Hồi giáo được địa phương hóa, theo đó họ cầu nguyện chỉ vào thứ Sáu và tổ chức Ramadan chỉ trong ba ngày. Tuy vậy, trong những năm gần đây, một số thành viên của nhóm này đã tham gia vào cộng đồng Chăm Hồi giáo lớn hơn trong các thực hành tôn giáo. Một trong những yếu tố dẫn đến sự thay đổi này là ảnh hưởng từ các thành viên trong gia đình của họ đã ra nước ngoài để nghiên cứu về Hồi giáo.
Có khoảng 60.000 người Chăm theo
Ấn giáo (Hinduism) và ngày nay không có một hệ thống đẳng cấp nghiêm ngặt, dù trước đó họ có thể đã được chia thành đẳng cấp Nagavamshi Kshatriya
[4] cùng với 1 thiểu số đẳng cấp Brahmin có vai vế
[5]. Các đền Hindu được gọi là
Bimong trong tiếng Chăm nhưng cũng thường được gọi là
Tháp. Các thầy tế lễ được chia thành 3 cấp, cấp bậc cao nhất được gọi là
Po Adhia hay
Po Sá, tiếp theo là
Po Tapáh và thấp nhất là
Po Paséh.
Người Chăm ở
Việt Nam về mặt tín ngưỡng có 3 nhóm: người
Chăm Balamôn theo Ấn giáo (đạo Balamôn) dung hợp với tín ngưỡng dân gian gồm có người Chăm Hroi và một phần người Chăm ở Ninh Thuận-Bình Thuận; người
Chăm Bani ở Ninh Thuận-Bình Thuận theo Hồi giáo Bani, là 1 dạng Hồi giáo kết hợp với tín ngưỡng bản địa sẵn có; và người
Chăm Islam chủ yếu ở An Giang, Tp.HCM, Tây Ninh, Đồng Nai theo Hồi giáo chính thống, tiếp tục có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới Hồi giáo bên ngoài, đặc biệt là với
Malaysia. Tại tỉnh Ninh Thuận, nơi có nhiều người Chăm ở Việt Nam cư trú, có khoảng 44.000 người Chăm Balamôn (Hindu) và gần 31.000 người Chăm Bani. Trong số 34 làng Chăm ở Ninh Thuận, có 23 làng Hindu và 11 làng Bani
[6]. Tại tỉnh Bình Thuận, nơi có 4 làng toàn người Chăm và 9 làng hỗn hợp thì có gần 25.000 người Chăm Balamôn và khoảng 10.000 người Chăm Bani
[7].
Đặc điểm kinh tế
Chăm là một dân tộc có nhiều ngành nghề truyền thống lâu đời như thêu, dệt, làm đồ gốm, làm gạch, chế tạo công cụ sản xuất, buôn bán, đóng thuyền, đánh cá, điêu khắc... đặc biệt là nghề trồng lúa nước được người Chăm phát triển từ rất sớm và luôn có những cải tiến về giống và thủy lợi.
Người Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Trước kia, người Chăm không trồng cây trong làng vì cho rằng cây sẽ là nơi cư trú của ma quỉ.
Tổ chức cộng đồng
Người Chăm thường sinh sống tập trung trong paley Chăm (làng Chăm). Mỗi paley có khoảng 300 đến 400 hộ gia đình, cùng theo một tôn giáo nhất định, gồm nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Mỗi paley đều có một đơn vị hành chính của làng là: Hội đồng phong tục và Po Paley (Trưởng làng), trong đó, Po Paley là người đóng vai trò rất quan trọng trong Paley. Luật tục Chăm ghi:
“ |
Ếch có nắp đậy hang;
Làng có chủ cai quản.
| ” |
Po Paley được dân làng bầu, phải là người cao tuổi, có uy tín, am hiểu phong tục tập quán, luôn vì mọi người, có lòng vị tha. Đồng thời Po Paley cũng phải là người lao động giỏi, có kinh nghiệm trong sản xuất, gia đình hạnh phúc, con cháu xum họp đoàn kết. Người Chăm ví Po Paley như là cây cao, bóng cả:
“ |
Cây to lan tỏa một lòng,
Xòe ra che mát cho người dừng chân.
| ” |
Hội đồng phong tục do dân làng bầu chọn và có nhiệm vụ trông coi về vấn đề phong tục tập quán, tín ngưỡng. Thành viên của Hội đồng phong tục đều là những người có uy tín trong tôn giáo, trong các tộc họ, là người am hiểu tập quán, phong tục lễ nghi, tín ngưỡng, tôn giáo của người Chăm, có quyền phân xử những thành viên trong paley vi phạm Luật tục. Trong trường hợp người vi phạm ngoan cố thì khi cha, mẹ hoặc người thân chết, Hội đồng phong tục sẽ cấm các tu sỹ, chức sắc không được cúng lễ và xem như người vi phạm đã bị loại ra khỏi cộng đồng.
Người Chăm có tập quán bố trí cư trú dân cư theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như thế ngăn cách với nhau bởi những con đường nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.
Mỗi một dòng họ có một chiết Atâu, một Akauk Guăp và một vật tổ riêng. Luật tục Chăm quy định, Akauk Guăp phải là người cao tuổi, am hiểu phong tục tập quán, có uy tín trong dòng họ, gia đình giàu có, không được có chồng chắp vợ nối.
Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ và tín ngưỡng nữ thần vẫn tồn tại ở người Chăm. Đàn ông lo việc ngoài nhà, đàn bà lo việc trong gia đình và gia phả. Phong tục Chăm qui định con theo họ mẹ, họ bên mẹ được xem là gần (họ nội). Nhà gái cưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ, đến khi chết đi nhà vợ có trách nhiệm thờ cúng đến hết tang, sau đó mang hài cốt về trả lại cho dòng họ nhà trai tiếp tục thờ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Nhà cửa
Mặt trước ngôi nhà chính trong khối nhà ở và sinh hoạt của một gia đình người Chăm - Phục dựng tại Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam)
Nhà ở của người Chăm là một quần thể nhà trong một khuôn viên (bây giờ do việc quy họach phân lô đất theo kiểu nhà liên kế hẹp nên việc phát triển nhà theo quần thể trong một khuôn viên dần không còn nữa). Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình tan vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ.
- Bộ khung nhà của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (kèo được liên kết với cột hoặc không có vì kèo thì dùng tường thay thế kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
- Mặt trước nhà quay về hướng Nam hoặc hướng Tây. Gian giữ là trung tâm (người Chăm gọi là sang-yơ), phía phải là phòng ngủ của bố mẹ, bên trái là kho, sau là phòng ngủ của con cái. Mặt trước có một hiên ở giữa nhà.
- Nhà bếp được xây dựng riêng biệt với nhà chính và ở phía Tây nhà chính, trong nhà bếp có khu bếp, khu chứa nước uống và kho chất đốt (củi, than, v.v.).
Nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
- Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà sang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc: khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình thước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở.
Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như ở An Giang.
Trang phục
Có những nhóm địa phương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
Trang phục nam
Nhóm nhạc công người Chăm với trang phục nam truyền thống
Trang phục cổ truyền: Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn màu nhạt (
vàng hoặc
bạc), ở hai đầu khăn có các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân. Những vị có chức sắc (tôn giáo), hai đầu khăn có hoa văn màu vàng, tua vải màu đỏ, quấn thả ra hai mang tai. Nam mặc áo có cánh xếp chéo và cài dây phía bên hông (thắt lưng), thường là áo màu trắng, trong là quần soọc, ngoài quấn váy xếp.
Trang phục nữ
Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23 m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nữ mặc áo cổ tròn cài nút phía trước ngực xuống đến bụng, quấn váy xếp (khi làm lễ) hoặc mặc váy ống (thông thường), đầu quấn khăn không ràng buộc về màu sắc.
Phụ nữ Chăm ở Châu Đốc dệt vải theo phương pháp truyền thống
Nhóm
Khánh Hòa và một số nơi, phụ nữ mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy.
Nhóm
Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.
Người Chăm nổi tiếng
- Chế Bồng Nga, vua Chămpa
- Chế Linh, ca sỹ
- Inrasara (Phú Trạm), nhà thơ
- Đàng Năng Thọ, nhà điêu khắc, giám đốc trung tâm văn hóa Chăm, Phan Rang
Xem thêm
-
-
Chú thích
- ^ http://www.joshuaproject.net/peopctry.php?rop3=110776&rog3=CB
- ^ a b Ban chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở trung ương Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009: Kết quả toàn bộ. Hà Nội, 6-2010. Table 5, page 134
- ^ a b http://www.joshuaproject.net/people-profile.php?peo3=15361&rog3=LA
- ^ India's interaction with Southeast Asia, Volume 1, Part 3 By Govind Chandra Pande, Project of History of Indian Science, Philosophy, and Culture, Centre for Studies in Civilizations (Delhi, India) p.231,252
- ^ http://www.state.gov/g/drl/rls/irf/2004/35433.htm
- ^ Interview with High Priest or Po Adhia of Ninh Thuan province and his assistant, 23 December 2011
- ^ Interview with priest or Po Guru near Ma Lam town, and the director of Binh Thuan Cham Cultural Center, Bac Binh district, 22 December 2011
Liên kết ngoài
Lịch sử Chăm Pa
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Loạt bài
Lịch sử Chăm Pa
Lịch sử Chăm Pa, bao gồm các quốc gia
Lâm Ấp,
Hoàn Vương,
Chiêm Thành (
Campanagara) và
Thuận Thành (
Nagar Cam), độc lập được từ
192 và kết thúc vào
1832[1]. Trước
thế kỷ thứ 2, vùng đất của vương quốc Chăm Pa cổ đã được nhắc đến với tên
Hồ Tôn Tinh (trong truyền thuyết), rồi tên huyện
Tượng Lâm (thuộc quận Nhật Nam thời
nhà Hán) khi nằm dưới sự thống trị của
Trung Quốc. Lãnh thổ này được ghi nhận là từ
miền Trung trở vào
miền Nam Việt Nam, thay đổi tùy thời kỳ. Từ 1694 đến 1832, chúa Chăm Pa (Trấn vương Thuận Thành) nằm dưới sự đô hộ của các
chúa Nguyễn, vua
nhà Tây Sơnvà vua
nhà Nguyễn cho đến lúc bị sáp nhập hoàn toàn.
Lịch sử vương quốc Chăm Pa được khôi phục dựa trên ba nguồn sử liệu chính
[2]:
- Các di tích còn lại bao gồm các công trình đền tháp xây bằng gạch còn nguyên vẹn cũng như đã bị phá hủy và cả các công trình chạm khắc đá;
- Các văn bản còn lại bằng tiếng Chăm và tiếng Phạn trên các bia và bề mặt các công trình bằng đá;
- Các sách sử của Việt Nam và Trung Quốc, các văn bản ngoại giao, và các văn bản khác liên quan còn lại.
Thời tiền sử
Người dân Chăm Pa có nguồn gốc
Malayo-Polynesian di cư đến đất liền Đông Nam Á từ
Borneo vào thời đại
văn hóa Sa Huỳnh ở thế kỷ thứ 1 và thứ 2 trước Công nguyên. Qua quan sát đồ đất nung, đồ thủ công và đồ tùy táng đã phát hiện thấy có một sự chuyển đổi liên tục từ những địa điểm khảo cổ như hang động Niah ở
Sarawak, Đông
Malaysia. Các địa điểm văn hóa Sa Huỳnh rất phong phú đồ
sắt trong khi nền
văn hóa Đông Sơn cùng thời kỳ ở miền Bắc Việt Nam và các nơi khác trong khu vực Đông Nam Á lại chủ yếu là đồ đồng.
Ngôn ngữ Chăm thuộc
ngữ hệ Nam Đảo (
Austronesian).
Văn hóa Sa Huỳnh
-
Văn hóa Sa Huỳnh là xã hội tiền sử thuộc thời đại kim khí tại khu vực ven biển miền Trung Việt Nam. Năm
1909, đã phát hiện khoảng 200 lọ được chôn ở Sa Huỳnh, một làng ven biển ở nam
Quảng Ngãi. Từ đó đến nay đã phát hiện được rất nhiều hiện vật ở khoảng 50 địa điểm khảo cổ. Sa Huỳnh có đặc điểm văn hóa
thời đại Đồng Thau rất đặc trưng với phong cách riêng thể hiện qua các hiện vật như rìu, dao và đồ trang sức. Việc định tuổi theo
phương pháp phóng xạ carbon đã xếp văn hóa Sa Huỳnh đồng thời với văn hóa Đông Sơn, tức khoảng thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Người Chăm bắt đầu cư trú tại đồng bằng ven biển miền Trung Việt nam từ khoảng năm 200 công nguyên. Lúc này người Chăm đã tiếp thu các yếu tố của văn hóa tôn giáo và chính trị của Ấn Độ. Các nghiên cứu khảo cổ học của các tác giả Việt Nam đã cho thấy người Chăm chính là hậu duệ về mặt ngôn ngữ và văn hóa của người Sa Huỳnh cổ. Các hiện vật khảo cổ của người Sa Huỳnh đã cho thấy họ đã là những người thợ thủ công rất khéo tay và đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức và vật dụng trang trí bằng đá và
thủy tinh. Phong cách trang sức Sa Huỳnh còn phát hiện thấy ở
Thái Lan,
Đài Loan và
Philippines cho thấy họ đã buôn bán với các nước láng giềng ở Đông Nam Á cả bằng đường biển và đường bộ. Các nhà khảo cổ cũng quan sát thấy các hiện vật bằng sắt đã được người Sa Huỳnh sử dụng trong khi người Đông Sơn láng giềng vẫn còn chủ yếu sử dụng đồ đồng.
Trước khi lập quốc
- Xem bài chính Hồ Tôn Tinh
- Xem bài chính huyện Tượng Lâm
Lâm Ấp
-
Theo sử liệu Trung Quốc, vương quốc Chăm Pa đã được biết đến đầu tiên là vương quốc Lâm Ấp bắt đầu từ năm 192 ở khu vực
Huế ngày nay, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại
nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công
[3].
Từ nước láng giềng
Phù Nam ở phía tây và nam, Lâm Ấp nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ
[4]. Các học giả đã xác định thời điểm bắt đầu của Chăm Pa là thế kỷ thứ 4 Công nguyên, khi quá trình Ấn hóa đang diễn ra. Đây chính là giai đoạn mà người Chăm đã bắt đầu có các văn bản mô tả trên đá bằng chữ Phạn và bằng chữ Chăm, và họ đã có
bộ chữ cái hoàn chỉnh để ghi lại tiếng nói của người Chăm
[5].
Vị vua đầu tiên được mô tả trong văn bia là
Bhadravarman, cai trị từ năm
349 đến
361. Ở
thánh địa Mỹ Sơn, vua Bhadravarman đã xây dựng nên ngôi đền thờ thần có tên là Bhadresvara, cái tên là sự kết hợp giữa tên của nhà vua và tên của thần
Shiva, vị thần của các thần trong Ấn Độ giáo
[6]. Việc thờ vua như thờ thần, chẳng hạn như thờ với tên thần Bhadresvara hay các tên khác vẫn tiếp diễn trong các thế kỷ sau đó
[7].
Vào thời Bhadravarman, kinh đô của Lâm Ấp là kinh thành Simhapura ("thành phố Sư tử"), nằm ở dọc hai con sông và bao quanh bởi tường thành có chu vi dài đến tám dặm. Theo ghi chép lại của một người Trung Quốc thì người Lâm Ấp vừa ưa thích ca nhạc nhưng cũng lại hiếu chiến, và có "mắt sâu, mũi thẳng và cao, và tóc đen và xoăn"
[8].
Cũng theo tài liệu Trung Quốc, Sambhuvarman lên ngôi vua Lâm Ấp năm 529. Các tài liệu cũng mô tả vị vua này đã cho khôi phục lại ngôi đền thờ Bhadresvara sau một vụ cháy. Sambhuvarman cũng đã cử sứ thần sang cống tuế Trung Quốc, và đã xâm lược không thành phần đất mà ngày nay là miền Bắc Việt Nam
[9]. Năm 605, tướng Lưu Phương
nhà Tùy xâm lược Lâm Ấp, và đã chiến thắng sau khi dụ tượng binh của Lâm Ấp đến và tiêu diệt tại trận địa mà trước đó ông đã cho đào nhiều hố nhỏ và phủ cỏ lên
[10]. Vào khoảng những năm 620, các vua Lâm Ấp đã cử nhiều sứ thần sang
nhà Đường và xin được làm nước phiên thuộc của Trung Quốc
[11].
Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết của vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756 Công nguyên. Sau đó trong một thời gian dài, các sách sử Trung quốc gọi Chăm Pa là "Hoàn Vương"
[12]. Tài liệu Trung Quốc sớm nhất sử dụng tên có dạng "Chăm Pa" là vào năm 877, tuy nhiên, những cái tên như vậy đã được người Chăm sử dụng muộn nhất là từ năm 629, và người Khmer đã dùng muộn nhất là từ năm 657
[13].
Hoàn Vương
-
Từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 10, người Chăm kiểm soát việc buôn bán
hồ tiêu và tơ lụa giữa Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, và đế quốc
Abbassid ở
Baghdad. Người Chăm còn bổ sung thêm cho nguồn thu nhập của mình từ thương mại, không chỉ bằng việc xuất khẩu
ngà voi và
trầm hương mà còn bằng cả các hoạt động cướp phá trên biển và các nước láng giềng ven biển
[14].
Thánh địa của người Chăm ở Mỹ Sơn
Vào nửa cuối thế kỷ thứ 7, các ngôi đền của hoàng gia bắt đầu được xây dựng tại
Mỹ Sơn. Tôn giáo chính lúc này là thờ thần
Shiva nhưng các ngôi đền cũng thờ cả thần
Vishnu. Các học giả gọi phong cách kiến trúc thời kỳ này là phong cách Mỹ Sơn E1, để chỉ các di tích ở Mỹ Sơn điển hình theo phong cách này. Các công trình còn đến nay của phong cách này bao gồm bệ đá hình
linga được biết với tên gọi là bệ đá Mỹ Sơn E1 và phần trán tường có hình
Brahma được sinh ra từ hoa sen nở từ rốn của thần Vishnu đang ngủ
[15].
Trong một văn bia khắc năm 657 tìm thấy ở Mỹ Sơn, vua Prakasadharma, người lấy hiệu là Vikrantavarman I, đã tự xưng có bên ngoại là hậu duệ của Brahman Kaundinya và công chúa rắn Soma, người theo truyền thuyết cũng là thủy tổ của người Khmer. Chính văn bia này đã cho thấy mối quan hệ về văn hóa và chủng tộc giữa vương quốc Chăm Pa và đế quốc Khmer. Bia được khắc nhân dịp vua cho dựng tượng đài, có lẽ là linga, cho thần Shiva
[16]. Một văn bia khác mô tả lời cầu nguyện chân thành của vua khi hiến tế cho Shiva: người là nguồn khởi thủy của sự kết thúc vĩnh viễn sự sống, điều rất khó đạt được; mà bản chất thực sự nằm ngoài suy nghĩ và lời nói của con người, tuy nhiên những ai mà ý niệm tương đồng với vũ trụ thì hình thái của người sẽ hiện ra
[17].
Thời kỳ hưng thịnh của Kauthara
Vào thế kỷ thứ 8, trung tâm chính trị của Chăm Pa đã tạm thời chuyển từ Mỹ Sơn xuống khu vực Panduranga và Kauthara, với trung tâm ở quanh quần thể đền tháp là
Tháp Bà - Po Nagar ở gần
Nha Trang ngày nay nơi để thờ nữ thần đất Yan Po Nagar. Năm 774, người
Java đã phá hủy Kauthara, đốt đền thờ Po Nagar, và mang đi tượng Shiva. Vua Chăm là Satyavarman đã đuổi theo quân giặc và đánh bại chúng trong một trận thủy chiến. Năm 781, Satyavarman đã dựng bia tại Po Nagar, tuyên bố đã chiến thắng và kiểm soát toàn bộ khu vực và đã dựng lại đền. Năm 787, người Java lại đốt phá đền thờ Shiva ở gần Panduranga
[18].
Chiêm Thành
-
Triều đại Phật giáo ở Indrapura
Tượng Phật Đồng Dương – Cuối thế kỷ thứ 9.
Năm 875, vua
Indravarman II đã xây dựng nên triều đại mới ở
Indrapura (thành Đồng Dương, ở huyện
Thăng Bình, Việt Nam ngày nay). Vua Indravarman tự xưng là hậu duệ của
Bhrigu trong sử thi
Mahabharata, và quyết đoán rằng chính kinh thành Indrapura đã từng được chính Bhrigu ở thời cổ đại xây dựng nên
[19].
Indravarman là vị vua Chăm đầu tiên theo
Phật giáo Đại thừa và xem đây là tôn giáo chính thức. Ở trung tâm của Indrapura, ông đã xây dựng một tu viện Phật giáo (vihara) để thờ
bồ tát Lokesvara (Quán Thế Âm). Di tích này đã bị hủy hoại trong
chiến tranh Việt Nam, chỉ còn lại một số hình ảnh và bản vẽ từ trước chiến tranh. Một số tượng đá từ tu viện cũng được gìn giữ tại các viện bảo tàng ở Việt Nam. Các học giả đã gọi phong cách nghệ thuật điển hình tại Indrapura là
phong cách Đồng Dương. Phong cách đặc trưng bởi tính năng động và tính hiện thực về mặt dân tộc học khi mô tả người Chăm. Các tác phẩm còn lại của phong cách này có một số bức tượng
dvarapala hay hộ pháp rất dữ tợn trước đây được đặt ở quanh tu viện. Thời kỳ Phật giáo thống trị, Chăm Pa kết thúc năm 925, lúc phong cách Đồng Dương đã bắt đầu nhường bước cho các phong cách tiếp theo có mối liên hệ với sự phục hồi của đạo thờ
thần Si-va[20].
Các vua của triều đại Indrapura đã xây dựng ở Mỹ Sơn một số đền tháp vào thế kỷ thứ 9 và thứ 10. Các đền tháp này ở Mỹ Sơn đã xác định một phong cách kiến trúc và nghệ thuật khác mà các học giả gọi là
phong cách Mỹ Sơn A1, dùng để chỉ tất cả các di tích ở Mỹ Sơn điển hình cho phong cách này. Với sự chuyển đổi tôn giáo từ Phật giáo trở về Si-va giáo vào khoảng thế kỷ thứ 10, trung tâm tôn giáo của người Chăm cũng chuyển từ Đồng Dương trở về Mỹ Sơn
[21].
Suy yếu
Chăm Pa đạt đến đỉnh cao của văn minh Chăm ở Indrapura nằm tại khu vực Đồng Dương và Mỹ Sơn ngày nay. Các yếu tố dẫn đến sự suy yếu của Chăm Pa ở các thế kỷ sau chính là ở vị trí lý tưởng nằm trên các tuyến thương mại, dân số ít và thường xuyên có chiến tranh với các nước láng giếng là Đại Việt ở phía Bắc và
Khmer ở phía Tây và Nam.
Lịch sử Bắc Chăm Pa (Indrapura và Vijaya) phát triển đồng thời với vương quốc láng giềng là nền văn minh
Angkor của
người Khmer nằm ở phía bắc hồ lớn
Tonle Sap trên phần đất mà ngày nay là
Campuchia. Sau khi vương triều Chăm ở Indrapura được thiết lập năm 875 thì chỉ hai năm sau tức năm 877 tại
Roluos, vua Indravarman I đã thiết lập đế quốc Khmer. Lịch sử của Chăm Pa và đế quốc Khmer cũng đều phát triển rực rỡ trong thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, rồi đều dần suy yếu và tan rã vào thế kỷ thứ 15. Năm 1238, đế quốc Khmer mất miền đất phía tây xung quanh
Sukhothai sau một cuộc nổi dậy của người
Xiêm. Thành công của cuộc nổi dậy không chỉ mở ra kỷ nguyên độc lập của người Xiêm mà còn báo trước sự tan rã của Angkor năm 1431 sau khi bị người Xiêm từ
vương quốc Ayutthaya phá hủy và rồi bị sát nhập vào Sukhothai năm 1376. Sự suy yếu của Chăm Pa cũng diễn ra đồng thời với Angkor, dưới sức ép từ Đại Việt, quốc gia nằm ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, và chấm hết khi kinh thành Vijaya (tức Chà Bàn) bị người Việt chinh phục và phá hủy vào năm
1471.
Khmer xâm chiếm Kauthara
Năm 944 và 945, quân đội Khmer từ Angkor đã xâm chiếm khu vực Kauthara
[22]. Khoảng năm 950, người Khmer đã phá hủy
đền Po Nagar và lấy đi tượng nữ thần. Năm 960, vua Chăm là
Jaya Indravaman I đã cử sứ thần sang
nhà Tống (lúc này đóng đô ở
Khai Phong). Năm 965, nhà vua đã cho xây dựng lại đền thờ Po Nagar và tượng nữ thần để thay thế cho bức tượng đã bị lấy đi
[23].
Rời bỏ kinh đô Indrapura
Lãnh thổ Chăm Pa vào thế kỷ 10
Vào nửa cuối thế kỷ thứ 10, các vua của triều đại
Indrapura đã tiến hành chiến tranh với
Đại Cồ Việt. Trước đó, ở nửa đầu thế kỷ này, người Việt đã giành được độc lập từ tay người Trung quốc. Sau khi
Ngô Quyền chiến thắng quân
Nam Hán trên
sông Bạch Đằng năm
938, đất nước lại trải qua thời kỳ
loạn các sứ quân và được
Đinh Bộ Lĩnh thống nhất năm 968 với quốc hiệu
Đại Cồ Việt và kinh đô ở
Hoa Lư thuộc địa phận
Trường Yên tỉnh
Ninh Bình ngày nay
[24].
Năm 979, vua Chăm là
Parameshvaravarman I (sách
Đại Việt Sử kí Toàn thư gọi là Bê Mi Thuế) đã cử hạm đội sang tấn công
Hoa Lư. Tuy nhiên, toàn bộ quân viễn chinh đã bị tan rã sau một cơn
bão. Năm 982, vua
Lê Hoàn của
Đại Cồ Việt đã cử ba sứ thần sang Indrapura. Sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua
Lê Hoàn đã quyết định đánh Chăm Pa. Quân Đại Việt đã chiếm Indrapura và giết vua Parameshvaravarman. Họ mang về nước rất nhiều nhạc công và vũ công Chăm, chính những người này về sau đã ảnh hưởng đến sự phát triển nghệ thuật của Đại Việt
[25]. Do hậu quả để lại của việc tàn phá, người Chăm đã rời bỏ Indrapura vào khoảng năm 1000. Trung tâm của Chăm Pa được chuyển xuống
Vijaya ở phía nam nằm trên đất tỉnh
Bình Định ngày nay mà người Việt thời
Lý gọi là
Phật Thệ[26].
Người Việt triệt phá Vijaya
Mâu thuẫn giữa Chăm Pa và Đại Việt đã không chấm dứt với việc người Chăm từ bỏ kinh đô Indrapura. Chăm Pa đã chịu các đợt tấn công của Đại Việt năm 1021 và 1026. Năm 1044, một trận đại chiến diễn ra giữa Đại Việt và Chăm đã dẫn đến cái chết của vua Jaya Simhavarman II (sách sử Việt gọi là Sạ Đẩu) và việc vua
Lý Thái Tông của Đại Việt trực tiếp chỉ huy cuộc triệt hạ kinh đô Vijaya
[27]. Quân Việt mang về nước
voi, nhạc công và cả hoàng hậu
Mỵ Ê, người đã nhảy xuống sông tự tử trên đường về
Thăng Long[28]. Từ đó, Chăm Pa bắt đầu nộp cống cho các vua Đại Việt, và vào năm 1065 đã cống nạp một con
tê giác trắng. Năm 1068, vua Vijaya là
Rudravarman IV (tức
Chế Củ) lại tấn công Đại Việt để trả thù trận thua năm 1044. Một lần nữa người Chăm bị thất bại và Đại Việt lại chiếm và đốt phá kinh đô Vijaya. Kinh đô Vijaya bị đốt phá một lần nữa vào năm 1069, khi tướng
Lý Thường Kiệt chỉ huy hải quân tấn công Chăm Pa và chiếm Vijaya
[29]. Vua Rudravarman bị bắt làm tù binh và sau đó đã đổi ba châu
Địa Lý,
Ma Linh và
Bố Chính lấy tự do
[30][31]. Lợi dụng tình hình chiến sự, các thủ lĩnh người Chăm ở phía Nam đã dựng lên một vương quốc độc lập. Đến năm 1084, các vua Bắc Chăm Pa mới có thể tái thống nhất đất nước
[32]. Trong năm 1075, quân Đại Việt do Lý Thường Kiệt chỉ huy lại tấn công Chăm Pa nhưng không thắng được và phải rút quân về. Tuy không thắng nhưng Lý Thường Kiệt đã cho vẽ họa đồ ba châu mới lấy được và đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình, châu Ma Linh làm châu Minh Linh và đồng thời chiêu mộ dân chúng đến đấy ở
[33].
Khmer xâm chiếm Bắc Chăm Pa
Năm 1074, vua
Harivarman IV lên ngôi đã cho phục dựng lại các đền tháp ở Mỹ Sơn và mở ra một thời kỳ thịnh vượng ngắn ngủi. Harivarman thiết lập quan hệ hòa bình với Đại Việt nhưng lại mở ra cuộc chiến với người Khmer của
đế chế Angkor. Năm 1080, quân đội Khmer đã tấn công Vijaya và các trung tâm khác ở miền Bắc Chăm Pa. Các đền tháp và tu viện đã bị phá hủy; các di sản văn hóa đã bị lấy đi. Sau những thất bại này, quân Chăm dưới sự chỉ huy của vua Harivarman đã đẩy lùi quân địch, khôi phục lại kinh đô và các đền tháp
[34].
Khoảng năm 1080, một triều đại mới đã ra đời ở cao nguyên
Korat trên đất
Thái Lan ngày nay đã chiếm ngai vàng Angkor của đế quốc Khmer. Ngay sau đó, các vua của triều đại mới đã tiến hành mở rộng đế quốc. Sau thất bại của các cuộc tấn công Đại Việt năm 1132 và 1137
[35], các vua Angkor đã quay sang Chăm Pa. Năm 1145, quân đội Khmer dưới sự chỉ huy của vua
Suryavarman II, người đã xây dựng
Angkor Wat, đã chiếm Vijaya và phá hủy các đền tháp ở Mỹ Sơn. Vua Khmer sau đó đã tấn công và chiếm toàn bộ miền Bắc Chăm Pa. Tuy nhiên, năm 1149, vua
Jaya Harivarman, lãnh đạo của tiểu quốc Panduranga ở phía Nam, đã đánh bại quân xâm lược và lên ngôi vua của các vua tại Vijaya. Ông đã dành thời gian trị vị còn lại để đàn áp các cuộc nổi loạn tại Amaravati và Panduranga
[36].
Người Chăm chiếm Angkor
Phù điêu cuối thế kỷ 12 ở đền
Bayon(
Angkor) mô tả các thủy binh Chăm Pa đang tấn công quân Khmer.
Năm
1167,
Jaya Indravarman IV (sử Việt gọi ông là Chế Chí) lên ngôi vua Chăm Pa. Tài liệu văn bia mô tả ông dũng cảm, sử dụng thành thạo mọi loại vũ khí, và thông hiểu
triết học, thuộc hết các lý lẽ
Dharmasutra (một kinh
Ấn Độ giáo) và các học thuyết
Phật giáo Đại thừa[37]. Sau khi thiết lập hòa bình với Đại Việt năm 1170, vua Jaya Indravarman đã đánh sang Khmer. Năm 1177, một lần nữa quân đội của nhà vua đã bất ngờ tấn công thủ đô Khmer là
Yasodharapura từ các thuyền chiến đi ngược
sông Mekong đến hồ lớn
Tonle Sap ở Khmer. Quân Chăm đã chiếm thủ đô Khmer, giết vua Khmer, và mang về nhiều chiến lợi phẩm
[38].
Vijaya bị người Khmer chinh phục
Người Khmer nhanh chóng ủng hộ nhà vua mới
Jayavarman VII người đã đẩy lùi quân Chăm ra khỏi vương quốc Khmer vào năm 1181. Khi Jaya Indravarman IV một lần nữa tấn công Khmer năm 1190, Jayavarman VII đã giao cho một hoàng tử người Chăm là Vidyanandana làm tổng chỉ huy quân Khmer. Vidyanandana đã đánh bại quân xâm lược Chăm và thậm chí tiến lên chiếm Vijaya và bắt sống vua Jaya Indravarman về Angkor.
Sau khi chinh phục Vijaya, vua Khmer chọn người em rể là Hoàng tử In làm vua bù nhìn ở Chăm Pa. Nội chiến nổ ra tại Chăm Pa giữa các phe phái và cuối cùng Hoàng tử In chiến thắng nhưng lại tuyên bố Chăm Pa độc lập khỏi vương quốc Khmer
[39]. Quân Khmer đã cố gắng chiếm lại Chăm Pa nhưng không thành trong suốt những năm 1190. Năm 1203, cuối cùng thì tướng của vua
Jayavarman VII cũng chiếm lại được Vijaya và biến Chăm Pa trở lại thành một tỉnh của Angkor. Chăm Pa hoàn toàn mất độc lập cho đến năm 1220
[40]. Sau đó, Vijaya đi vào giai đoạn suy thoái kéo dài hơn hai thế kỷ. Thời kỳ này đi đến kết thúc bởi Đại Việt và chỉ có một gián đoạn ngắn ngủi trong những cố gắng quân sự của vua
Che Bonguar.
Cuộc xâm lược của quân Nguyên Mông
Năm 1270,
Kublai Khan dựng nên
nhà Nguyên ở
Bắc Kinh và dần dần chiếm hết miền Nam Trung Quốc do
nhà Nam Tống cai trị. Năm 1280, Kublai Khan quay sang thôn tính Chăm Pa và Đại Việt. Năm
1283, quân Nguyên dưới sự chỉ huy của tướng
Sogetu đánh Chăm Pa và chiếm kinh thành Vijaya. Việc xâm lược Chăm Pa không có kết quả lâu dài. Thay vì tấn công trực diện, vua Chăm đã cho rút quân lên
Tây Nguyên và tiến hành chiến tranh du kích. Hai năm sau, quân Nguyên phải rút lui và Sogetu bị giết trên đất Đại Việt trong một trận chiến khác trên đường rút quân về
[41].
Jaya Simhavarman III
Năm 1307, vua Chăm là
Jaya Simhavarman III (sử Việt gọi là Chế Mân), đã dựng đền thờ
Po Klaung Garai ở Panduranga (
Phan Rang), và nhượng hai
châu Ô,
Lý ở phía bắc cho Đại Việt làm
của hồi môn để cưới
công chúa Huyền Trân nhà Trần. Không lâu sau hôn lễ, nhà vua băng hà, Đại Việt cử người cướp công chúa trở về để tránh bị hỏa táng theo tục lệ của người Chăm
[42]. Tuy nhiên phần đất hồi môn của Chế Mân đã không trở về với Chăm Pa. Để giành lại miền đất này, và nhân cơ hội Đại Việt suy yếu trong thế kỷ thứ 14, quân Chăm bắt đầu thường xuyên xâm nhập biên giới vào sâu trong đất Đại Việt ở phía Bắc
[43].
Chế Bồng Nga
Vị vua hùng mạnh cuối cùng của vương quốc Chăm Pa là
Chế Bồng Nga. Không có văn bia Chăm Pa nào đề cập đến ông và Biên Niên Sử cũng không ghi chép về ông. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (1491), ông cai trị từ năm
1360 đến năm
1390. Ông tấn công vào Đại Việt nhiều lần. Quân đội Chăm Pa đã đánh phá
Thăng Long vào các năm
1372 và
1378[44]. Trong lần tấn công cuối cùng của Quân đội Chăm Pa vào lãnh thổ nhà Trần là vào năm
1389. Tuy lúc đầu bị quân đội nhà Trần do
Hồ Quý Ly chỉ huy chặn lại
[45], nhưng sau đó do dùng mưu dụ quân đội nhà Trần truy kích mà Quân đội Chăm Pa tiến lên thắng lớn. Nhờ có mưu kế của tướng
Nguyễn Đa Phương nên quân đội nhà Trần mới có thể rút lui bảo toàn lực lượng
[46]. Quân đội Chăm Pa dưới sự chỉ huy của Chế Bồng Nga và La Khải theo hai đường thủy bộ tiến đến tận
Hải Triều (khúc
sông Luộc chảy qua huyện
Phù Tiên,
Hải Hưng và huyện
Hưng Hà,
Thái Bình ngày nay)
[46]. Tại đây, sau trận thủy chiến với
Trần Khát Chân, Chế Bồng Nga đã chết tại trận, La Khải bèn nhân cơ hội rút quân về nước tự lập làm vua. Đó là năm
1390[47]. Đây là lần tấn công cuối cùng của quân đội Chiêm Thành vào Đại Việt nhưng cũng đã đủ để đặt dấu chấm hết cho
nhà Trần.
Xung đột với nhà Hồ
Năm 1391,
Hồ Quý Ly đem đại quân tới tận biên giới Việt - Chăm và cử Hoàng Phụng Thế đem quân tấn công Chăm Pa nhưng quân Chăm Pa đặt mai phục thắng lớn khiến toàn quân Việt tan vỡ chỉ có Phụng Thế thoát được về. Ngay trong năm đó Quý Ly cũng rút quân về
[48].
Đến năm 1402,
Hồ Hán Thương lại đem quân đi đánh Chăm Pa. Tiền quân Việt do viên tướng người Chăm là Chế Đa Biệt (tên Việt là Đinh Đại Trung)
[49]giao tranh quyết liệt với quân Chăm do Chế Tra Nan chỉ huy khiến hai bên đều tổn thất, cả hai viên tướng đều bị chết nhưng cũng làm cho vua Chăm là Jaya Indravarman VII (sách sử Việt gọi là Ba Đích Lại) (là con của La Ngai)
[50] phải nhường đất Chiêm Động (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Thăng và Hoa, nay là đất các huyện
Thăng Bình,
Tam Kỳ,
Quế Sơn,
Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam)
[51] và cả đất Cổ Lũy (Hồ Quý Ly chia làm hai châu Tư và Nghĩa nay là các huyện
Bình Sơn,
Sơn Tịnh,
Tư Nghĩa,
Mộ Đức,
Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi)
[51] cho
nhà Hồ.
Năm 1403,
Hồ Hán Thương lại giao Nguyên Khôi thống lĩnh quân thủy bộ tiến đánh Chăm Pa nhưng vì lương thực tiếp tế không đủ lại có hải quân Minh giúp quân Chăm nên phải rút quân về
[52].
Năm
1407, nhân khi quân Minh sang xâm lược
Đại Việt, quân Chăm Pa cũng tấn công
Đại Việt và lấy lại được đất cũ (Chiêm Động và Cỗ Lũy)
[53]. Tướng Minh là
Trương Phụ tiêu diệt các lực lượng chống đối của tàn dư nhà Hồ, giết tướng
Hoàng Hối Khanh và thu hàng tướng
Đặng Tất; đất đai Trương Phụ thu về nhà Minh chỉ đến Hoá châu, không tiến xuống vùng đất Chăm Pa vừa lấy lại.
Đại Việt chinh phục và tàn phá Vijaya
Năm
1446, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của
Trịnh Khả, Lê Thụ và Lê Khắc Phục đã tấn công Chăm Pa. Cuộc tấn công kết thúc thắng lợi và thành Vijaya mà người Việt thời Lê gọi là thành
Chà Bàn (hay
Đồ Bàn) rơi vào tay quân Việt. Quân Việt cũng bắt sống vua Chăm là Bí Cai (Bichai) và mang về Thăng Long cùng với nhiều phi tần
[54]. Tuy nhiên năm sau quân Việt đã bị đẩy lùi
[55].
Năm
1470, quân Đại Việt do vua
Lê Thánh Tông trực tiếp chỉ huy lại tấn công Chăm Pa. Quân Đại Việt lúc này đã rất mạnh và có tổ chức tốt. Ngược lại quân Chăm rất yếu và thiếu tính tổ chức
[55]. Thủy quân Đại Việt do các tướng
Đinh Liệt và Lê Niệm chỉ huy tấn công trước. Lê Thánh Tông dẫn đại quân theo sau
[56]. Tháng 2 năm đó, vua Chăm là Trà Toàn cử em đem tượng binh và bộ binh đến sát trung quân của vua Lê Thánh Tông
[57]. Các tướng Lê Hy Cát, Hoàng Nhân Thiêm, Lê Thế và Trịnh Văn Sái đem thủy quân chắn giữ cửa biển Sa Kỳ (nay là huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi) chặn lối rút của quân Chăm
[57]. Vua Lê Thánh Tông dẫn thủy quân tiến đánh quân Chăm
[57] ở cửa Áp (tức cửa Tân Áp, sau là cửa Đại Áp ở huyện Tam Kỳ tỉnh
Quảng Nam)
[57]và cửa Tọa (tức cửa Cựu Tọa sau là cửa Tiểu Áp cách cửa Đại Áp hơn 7 dặm
[58]). Đồng thời bộ binh Đại Việt do
Nguyễn Đức Trung ngầm đi đường núi tấn công quân Chăm khiến quân Chăm phải rút về thành Vijaya
[57]. Quân Việt nhanh chóng tiến lên đánh bại quân Chăm và bao vây thành Vijaya
[59]Thành Vijaya thất thủ vào ngày
2 tháng 3 năm
1471 sau bốn ngày giao tranh
[55]. Vua Chăm là Trà Toàn bị bắt sống và chết trên đường chở về Thăng Long
[60]. Ít nhất hơn 60.000 người Chăm bị giết và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn toàn
[55]. Sau chiến thắng vua Lê Thánh Tông đã sát nhập các địa khu Amaravati và Vijaya
[55] và lập nên thừa tuyên Quảng Nam và duy trì vệ quân Thăng Hoa ở đây
[61]. Tướng Chăm là Bô Trì Trì (tên Chăm: ?) chiếm vùng đất Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua của người Chăm xin nộp cống xưng thần và vua Lê Thánh Tông phong Bô Trì Trì làm vương đất Chăm (sách Toàn thư gọi là Chiêm Thành tức là vùng đất Phan Rang, Thuận Hải ngày nay)
[62]. Vua Lê Thánh Tông cũng phong vương cho tiểu vương xứ Kauthara (sách Toàn thư gọi là Hoa Anh tức là vùng đất tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay)
[63] và nước
Nam Bàn (sau này là hai nước
Thủy Xá và
Hỏa Xá mà ngày nay là đất các tỉnh
Gia Lai,
Kon Tum và
Đăk Lăk tức miền đất Tây Nguyên)
[64]. Chính thất bại này đã dẫn đến việc người Chăm lần đầu tiên di cư với số lượng lớn sang Campuchia và
Malacca[65].
Panduranga-Chăm Pa
-
Lãnh thổ Panduranga-Chăm Pa từ sau 1471
Phần đất còn lại của vương quốc Chăm Pa lịch sử mà sách sử người Việt gọi là Chiêm Thành chỉ từ Phú Yên ngày nay trở về Nam (Kauthara và Panduranga) và từ năm 1653 Chăm Pa chỉ còn nửa đất phía nam của địa khu Panduranga (tức Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết ngày nay). Tuy nhiên, dưới sự bảo hộ của Đại Việt, vương quốc này vẫn giữ được độc lập dưới sự cai trị của các chúa Chăm.
Năm
1594 chúa Chăm là Po At đã gửi lực lượng sang giúp Sultan xứ Johor để tấn công quân
Bồ Đào Nha ở
Malacca[66].
Năm 1611, chúa
Nguyễn Hoàng đã cử một viên tướng người Chăm mà sử Việt gọi là Văn Phong đánh chiếm hai huyện Đồng Xuân và Tuy Hoa để lập ra phủ Phú Yên, sau đổi thành dinh Trấn Biên
[67].
Trong các năm 1627 đến 1651 là giai đoạn chúa Chăm là
Po Rome xưng vương và lấy con gái của chúa
Nguyễn Phúc Nguyên là
Ngọc Hoa (có sách gọi là
Ngọc Khoa). Đây cũng là giai đoạn mà quan hệ Việt – Chăm diễn ra tốt đẹp
[67]. Năm 1653, chúa Chiêm là Bà Bật (còn gọi là Bà Tấm, Bà Thâm, Bà Thấm hay Bà Tranh; tên Chiêm:?) xâm lấn Phú Yên. Chúa
Nguyễn Phúc Tần cử cai cơ Hùng Lộc và tham mưu Minh Vũ đem quân vượt qua dãy núi Thạch Bi chiếm đất Chăm đến sát bờ trái sông Phan Rang ngày nay lập ra hai phủ là Thái Khang (nay là Ninh Hòa) và Diên Ninh (nay là Diên Khánh). Đây cũng là thời điểm Chăm Pa nộp cống xưng thần với các chúa Nguyễn
[67].
Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1834), năm
1692, Chúa Chăm tên Bà Tranh đã tấn công vào phủ Diên Ninh và dinh Bình Khang tức vùng Diên Khánh ngày nay. Cuộc tấn công này đã thất bại và quân Chăm bị tướng
Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại vào năm 1693. Chúa Nguyễn đổi tên Chiêm Thành Quốc thành Thuận Thành Trấn, sau đó đổi Thuận Thành Trấn thành Bình Thuận Phủ.
Theo Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (1834) và Hoa Di Biến Thái (Ka-i-hen-tai, sử liệu Nhật Bản cuối thế kỷ thứ 17-đầu thế kỷ thứ 18), sau khi Chúa Bà Tranh chết tại Huế, em trai của Bà Tranh là Kế Bà Tử đã nổi dậy. Quy tộc Chăm tên Ốc Nha Đạt và người Mãn Thanh tên A Ban chỉ huy quân Chăm. Lúc đó Nguyễn Hữu Cảnh đang đi Tây Chính, và quân Nguyễn ở lại đã bị quân Chăm tiêu diệt hoàn toàn. Khi Nguyễn Hữu Cảnh trở lại, Kế Bà Tử đã ký hòa ước với chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã đồng ý khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, và chúa Chăm được gọi là Trấn Vương, là thần hạ của chúa Nguyễn. Theo bộ văn bản hoàng gia Chăm (bản chữ Hán), mối quan hệ phiên thuộc giữa vùng đất cai quản bởi các chúa Chăm và chính quyền trung ương của chúa Nguyễn diễn ra tốt đẹp.
Thuận Thành trấn
-
Lãnh thổ Thuận Thành trấn (1697-1832)
Năm 1697, chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Bình Thuận (từ Phan Rang trở về tây) chia làm hai huyện An Phước và Hòa Đa
[68]. Cũng từ đây vùng đất Chăm còn lại (Phan Rang trở về đông) đã trở thành phiên thuộc của chúa Nguyễn và mối quan hệ giữa chúa Nguyễn và chúa Chăm là mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và địa phương
[68].
Đến năm 1712, chúa Nguyễn Phúc Chu đã ban hành một bản hiệp ước mới gọi là Ngũ điều Nghị định, trong đó khẳng định quyền xét xử của các chúa Chăm đối với các thần dân
người Chăm và cũng quy định nghĩa vụ của các chúa Chăm đối với các
chúa Nguyễn. Để giải quyết xung đột giữa người Chăm và người Việt, bản hiệp ước quy định các xung đột này sẽ do chúa Chăm tức Trấn Vương cùng với quan Cai bạ và quan Ký lục (cả hai là người Việt) phán quyết
[69]. Chế độ tự trị này được duy trì cho đến tận năm
1832 qua các đời chúa Nguyễn, thời
Tây Sơn và thời kỳ đầu triều đại
nhà Nguyễn. Tuy nhiên, các đời chúa Chăm sau Po Saktiray Da Patih không còn duy trì được mối quan hệ trực tiếp với các chúa Nguyễn và mọi công việc của Thuận Thành Trấn được tiến hành thông qua phủ Bình Thuận
[68] cho đến tận cuộc
nội chiến giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn.
Năm 1793, phiên vương Thuận Thành là Tá (gọi theo Tiền Biên; tên Chăm: Po Tithun da parang) theo phe Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đánh bại.
Nguyễn Ánhcho tướng người Chăm của phe mình là Thôn Bá Hú (tức Nguyễn Văn Hào, gọi theo Tiền Biên, tên Chăm: Po Lathun da paguh) làm Chánh trấn Thuận Thành và trong năm 1794 đặt chế độ chánh trấn và phó trấn và bỏ chế độ phiên vương .
[70]
Năm
1832 người Chăm lại nổi dậy chống lại vua
Minh Mạng nhân dịp có cuộc
khởi nghĩa Lê Văn Khôi ở phía Nam nhưng không thành công.
[68]. Chính quyền tự trị hạn chế của người Chăm chấm dứt tồn tại vào năm
1832, khi Hoàng đế
Minh Mạng đổi Thuận Thành thành phủ Ninh Thuận và đặt quan lại cai trị trực tiếp
[71]. Lịch sử vương quốc Chăm Pa chính thức dừng lại ở đây
[72].
Lịch sử miền đất Tây Nguyên ngày nay sau khi tách khỏi lịch sử Chăm Pa vào năm 1471 còn chưa được các học giả quan tâm nghiên cứu. Mối quan hệ lịch sử giữa Chăm Pa (trước thời Lê), Nam Bàn (thời Lê) và hai nước Thủy Xá, Hóa Xá (thời Nguyễn) còn chưa được chứng minh. Tuy nhiên theo
Cương mục[73] thì vua Lê Thánh Tông phong cho dòng dõi chúa Chăm Pa làm Nam Bàn quốc vương và đất đai Nam Bàn chính là đất phụ thuộc Chăm Pa xưa (trước thời Lê) và vào thời Nguyễn đấy chính là đất của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá (tức Tây Nguyên ngày nay). Sau khi Chăm Pa bị sát nhập hoàn toàn vào Việt Nam thì hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá tức miền đất
Tây Nguyên ngày nay vẫn giữ được độc lập nhưng trở thành phiên thuộc của
nhà Nguyễn[74]cho đến thời Pháp thuộc
[75].
Chú thích
- ^ Việt Nam Sử lược của Trần Trọng Kim - Bản điện tử
- ^ Vickery, "Champa Revised," tr.4.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.103.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.105.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.181.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.31.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.38-39; Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.55 trở đi.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.56 trở đi.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.60 trở đi.
- ^ Ngô Văn Doanh, My Son Relics, tr.62 trở đi.; Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.107-108. Toàn thư (bản tiếng Việt NXH KHXH 1998 tr.187) tập I.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.63.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.66.
- ^ Jean Boisselier, La statuaire du Champa, tr.87.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.109.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.49.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.66 trở đi; tr.183 trở đi. Bản dịch tiếng Anh ở trang 197 trở đi.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.210.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.72.
- ^ Jean Boisselier, La statuaire du Champa, tr.90 trở đi.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.72 trở đi., tr.184.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.32; Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.71 trở đi.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.73.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.75.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.122, 141.
- ^ Toàn thư, bản NXB KHXH 1998 theo mộc bản Chính Hòa, tr. 222, tập I.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.34; Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.75-76.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 265-266. tập I
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 267. tập I.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 274. tập I.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 274-275. tập I.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.77; Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.163 trở đi.
- ^ Jean Boisselier, La statuaire du Champa, tr.312.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 278, tập I.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.78, 188; Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.33. Bản tiếng Anh của bia Mỹ Sơn ca ngợi thắng lợi của nhà vua ở trang 218 trở đi.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 306 và tr.309. tập I.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.35; Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.84.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.87.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.89 và tr. 188; Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.36.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, My Son Relics, tr.89 trở đi., tr.189.
- ^ Ngô Vǎn Doanh, Champa, tr.36.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.184.
- ^ Toàn thư bản NXB KHXH 1998 từ mộc bản Chính Hòa, tr.91.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.193-194.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 154, tr. 164-165 tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 177-178 tập II.
- ^ a b Mộc bản Chính Hòa, tr. 178 tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 180 tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 182, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 193, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 201, tập II.
- ^ a b Mộc bản Chính Hòa, tr. 202, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 206, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 219, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 356-357, tập II.
- ^ a b c d e Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.243.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 445-446, tập II.
- ^ a b c d e . Mộc bản Chính Hòa, tr. 448, tập II.
- ^ Cương Mục Chính Biên, quyển 22 tờ 3, chú lại của bản Toàn thư tiếng Việt NXB KHXH 1998 từ mộc bản Chính Hòa tr. 448, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 449, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 450, tr. 452, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 452, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 450, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 450, tập II. Chú thích về Hoa Anh của Cương Mục dẫn lại theo chú của bản Toàn thư tiếng Việt NXB KHXH 1998 từ mộc bản Chính Hòa tr. 450, tập II.
- ^ Mộc bản Chính Hòa, tr. 450, tập II. Chú thích về Nam Bàn của Cương Mục dẫn lại theo chú của bản Toàn thư tiếng Việt NXB KHXH 1998 từ mộc bản Chính Hòa tr. 450, tập II.
- ^ Lê Thành Khôi, Histoire du Vietnam, tr.243.
- ^ Manguin, “The Introduction of Islam into Campa”, tr.12.
- ^ a b c Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, tr. 188, tập 3, NXB Trẻ, 2007.
- ^ a b c d Nhóm Nhân văn Trẻ, Hỏi đáp Lịch sử Việt nam, tr. 189, tập 3, NXB Trẻ, 2007.
- ^ Tiền biên, quyển 8, tr. 14a dẫn theo Danny.
- ^ Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Đại Nam Thực lục Chính Biên, Đệ nhất kỷ, bản dịch của Viện Sử học, tái bản lần 1, NXB Giáo dục, 2007, tr. 306
- ^ Cao Xuân Dục, Quốc Triều Chính Biên Toát yếu, bản tiếng Việt do Quốc Sử Quán dịch - NXB Nghiên cứu Sử Địa Việt nam 1972, tr. 81.
- ^ Po Dharma, “Status of the Latest Research on the Date of Absorption of Champa by Vietnam”, trong Proceedings of the Seminar on Champa, 1994, tr. 61.
- ^ Khâm Định Việt Sử Thông giám Cương Mục, bản tiếng Việt, NXB Giáo dục, 1998, tr. 524.
- ^ Sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, bản tiếng Việt do Quốc Sử Quán dịch - NXB Nghiên cứu Sử Địa Việt nam 1972, tr. 128, 142, 148, 184 còn ghi lại các lần hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá nộp cống cho nhà Nguyễn. Sách cũng cho biết việc nộp cống này được bắt đầu từ trước khi cải thổ quy lưu tức năm 1829, Sdd tr. 76. Sau cải thổ quy lưu, năm 1841, Sdd tr. 128, cả hai nước đều xin làm phiên thuộc.
- ^ Lần cuối cùng sách Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu đề cập đến việc hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá nộp cống cho nhà Nguyễn là năm 1869. Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, bản tiếng Việt NXB Nghiên cứu Sử Địa Việt nam 1972, tr. 187.
Xem thêm
Liên kết ngoài
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét