TƯ LIỆU MỚI TẠI HUẾ: HỒ TẤN TỘC LƯỢC TRUYỆN (TIẾP THEO)
ĐÌNH LÀNG DƯƠNG XUÂN, MIỂU XÓM, MIẾU ÂM HỒN VÀ CÁC MIẾU KHÁC
KHU VỰC PHƯỜNG ĐÚC
 
Càng đi càng lần dò ra nhiều thứ kỳ thú. Đình làng Dương Xuân với Trường Tiểu học Phường Đúc. Miếu Âm hồn, Miếu Sơn Thần, Am Thần Cẩu, Tượng đài Phao lồ Tống Viết Bường, Am Phổ, Thành Lồi, Hổ Quyền, Đền Voi Ré, Đài Sơn Xuyên, ...

 
 
 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
HỔ QUYỀN VÀ ĐỀN VOI RÉ
 
 
 
 

 
 
 

 
 
 

 


 
	
												
											
	
												 
											
 
 
 
 
[1] Về ngữ nghĩa của từ "lồi" (thành lồi, miếu lồi, tượng Phật lồi v.v ) xin xem thêm: Tạ Chí Đại Trường, 2006; Hoàng Dũng, 1991; Nguyễn Hữu Thông, 1994; Nguyễn Phước Bảo Đàn, 1999, 2001a, 2001b v.v...
 
 
 
 
  
ĐÌNH LÀNG DƯƠNG XUÂN, MIỂU XÓM, MIẾU ÂM HỒN VÀ CÁC MIẾU KHÁC
KHU VỰC PHƯỜNG ĐÚC
Theo dự kiến, tôi về Huế và lưu lại khoảng 10 ngày, có
nhiều nơi phải đi và thăm thú. Mấy hôm đầu đi quanh khu vực Phường Đúc (làng
Dương Xuân cổ) để thăm các di tích, thắng cảnh, tìm hiểu một số tập tục và tiếp
cận linh khí tại vùng đất này. Không ít thì nhiều những nơi này đều để lại dấu
tích ảnh hưởng và tác động chung đến con người ở đây, tạo phong thái tập tục
cho nếp sống cư dân vùng này. 
Càng đi càng lần dò ra nhiều thứ kỳ thú. Đình làng Dương Xuân với Trường Tiểu học Phường Đúc. Miếu Âm hồn, Miếu Sơn Thần, Am Thần Cẩu, Tượng đài Phao lồ Tống Viết Bường, Am Phổ, Thành Lồi, Hổ Quyền, Đền Voi Ré, Đài Sơn Xuyên, ...
















HỔ QUYỀN VÀ ĐỀN VOI RÉ

















THÀNH LỒI CHAMPA Ở HUẾ 
TỪ VỊ TRÍ TOẠ LẠC ĐẾN BỐI CẢNH THUẬN HOÁ BUỔI ĐẦU
QUẢNG VĂN SƠN
 
											
LỜI MỞ ĐẦU 
Văn
 hoá Champa là một nền văn hoá lớn có nhiều thành tựu đóng góp quan 
trọng, làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của cộng đồng dân tộc Việt Nam
 trong lịch sử.
Văn
 hoá Champa chảy dài trên dải đất miền Trung Việt Nam và lan tỏa lên cao
 nguyên đại ngàn, vượt ra các hải đảo xa xôi nơi biển cả.
Văn
 hoá Champa đã để lại dấu ấn từ thế kỷ IV – XVIII, sau đó hoà nhập vào 
nền văn hoá chung của cộng đồng Việt Nam. Với không gian và thời gian 
dài, văn hoá Champa đã góp thêm một sắc thái độc đáo, tạo nên tính đa 
dạng của bản sắc văn hoá dân tộc ta trong lịch sử. 
Thành
 cổ Champa là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Champa. Nghiên cứu thành
 cổ Champa là một con đường tiếp cận để tìm hiểu tòan diện nền văn hóa 
Champa. Trong lịch sử của mình, người Chăm đã xây đắp nhiều tòa thành 
cổ. Sau khi hòa nhập vào khối cộng đồng Việt Nam những tòa thành ấy đã 
mất đi vai trò lịch sử của chúng.
Những
 thành cổ của nước Champa xưa hiện còn dấu tích trên đất miền Trung nước
 ta được dân gian gọi là thành Lồi còn khá nhiều. Thành Lồi ở Quảng Bình
 và ở Huế, như những thành Lồi khác ở miền Trung, là thành cổ của 
Champa. 
Trong
 bài viết này, tác giả chỉ quan tâm, tập trung đến thành Lồi Champa ở 
Huế từ vị trí tọa lạc đến bối cảnh Thuận Hóa buổi đầu. Như một cách nhìn
 tòan diện về thành cổ Champa trong lịch sử.
1. Những tồn nghi của lịch sử
1.1.
 Cổ sử từng đề cập đến toà thành Champa mang tên gọi Khu Túc, toạ lạc ở 
khu vực Bình-Trị-Thiên-toà thành đầu tiên khi người Chăm lập quốc, và 
gắn liền sự kiện xuất hiện quốc gia Lâm Ấp (Lin-Yi) sau cuộc nổi dậy của
 Khu Liên năm 192 B.C (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội 
Trịnh sớ...,2005; Đặng Xuân Bảng, 1997; Đào Duy Anh, 1994; Thái Văn 
Kiểm, 1960 v.v...). Bởi rất nhiều lý do, cho đến hiện nay, vị trí chính 
xác của toà thành này vẫn đang còn là ẩn số của lịch sử và đang gây 
nhiều tranh cãi:
(1). Khu Túc là thành Phật Thệ [thành Phật Thệ cũng đang là ẩn số] (Quốc Sử Quán triều Nguyễn, 1969);
(2). Khu Túc là thành Lồi ở Thuỷ Xuân-Huế (Thái Văn Kiểm, 1960: 7);
(3). Khu Túc chính là Hoá Châu thành (Lê Văn Hảo, 1979: 47-51; Trần Đại Vinh, 1995);
(4). Khu Túc là thành Cao Lao Hạ (Quảng Trạch-Quảng Bình) (Đào Duy Anh, 1994: 68-70; Ngô Văn Doanh, 2003).
1.2.
 Ở các tỉnh bắc miền Trung (khu vực Bình Trị Thiên cũ) hiện còn dấu tích
 rất nhiều thành luỹ của Champa xưa mà dân gian thường gọi là "thành 
Lồi"[1]:
 phế luỹ Lâm Ấp-Hoàn Vương, thành lồi Cao Lao Hạ, Ninh Viễn Trấn Thành 
(Quảng Bình); thành Thuận Châu, Cổ Luỹ (Quảng Trị); Hoá Châu thành, 
thành Lồi, phế thành Lai Trung (Thừa Thiên Huế). Khu vực này cũng chính 
là địa bàn của các tiểu quốc Champa (madala): Traik, Jryi, Vvyar, Ulik 
(Trần Kỳ Phương, 2005:28); hoặc khu vực Vijaya như nhiều tài liệu trước 
đây. Nhiều như thế, những thực sự chúng đóng vai trò gì, nắm giữ vị trí 
như thế nào cho vùng đất này?
1.3.
 Các điều kiện ắt có trong mô hình qui hoạch madala Champa: núi 
thiêng-sông thiêng-cửa sông/cảng thị - Hoàng Thành/ thành phố thiêng - thánh đô/thánh địa[2],
 chiếu rọi vào Huế, phải chăng thành Lồi có mối quan hệ mật thiết với 
sông Truồi, cửa Tư Hiền, núi Kim Phụng - điện Hòn Chén/Huệ Nam (Trần 
Quốc Vượng, 1998: 334); hay thành Lồi - sông Hương (cùng sông Bồ, Ô Lâu 
v.v... chảy vào phá Tam Giang) - của Tư Hiền/Tư Dung-tháp Linh Thái để 
hình thành tiểu quốc (Trần Kỳ Phương, 2005: 28; Trần Kỳ Phương, 2003: 
113-114)...
1.4.
 Giữa quá nhiều ẩn số như thế, chúng tôi không mang tham vọng hứa hẹn 
câu trả lời chân xác, cũng không quá sa đà vào việc bàn luận vấn đề Khu 
Túc. Bằng vào việc hệ thống tư liệu liên quan, chúng tôi hy vọng sẽ góp 
phần làm sáng tỏ vấn đề vị trí lịch sử của thành Lồi ở Huế, qua việc đối
 sánh với lý thuyết hệ thống mạng lưới trao đổi ven sông (riverine 
exchange network), và mối quan hệ của hệ thống các địa điểm mang dấu 
tích Chăm hiện có ở khu vực Thừa Thiên Huế.
2. Tư liệu về thành Lồi ở Huế 
2.1. Thư tịch
Ở mục Cổ tích - Thừa Thiên phủ - Đại Nam Nhất thống chí mô tả toà thành này như sau: "ở
 xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thuỷ, thế truyền đây là chổ ở của vua Chiêm
 thành gọi là thành Phật Thệ. Nền cũ nay vẫn còn, tục gọi là thành Lồi"
 (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1969). Đây là nguồn tư liệu được sử dụng 
trong rất nhiều công trình khảo cứu về sau. Tuy nhiên, không hiểu vì lý 
do gì, thành Lồi ở Huế luôn được sử liệu đề cập "với bóng dáng của khu 
Túc Thành": năm 347, vua Champa Phạm Văn (336-349) "đem quân đánh 
hãm Nhật Nam, bắt giết thái thú Hạ Hầu Lãm, đuổi hết quan lại Trung 
Quốc, san bằng huyện thành Tây Quyển rồi chiếm cứ Nhật Nam, báo với thứ 
sử Giao Châu là Châu Phồn lấy Hoành Sơn làm biên giới phía Bắc của quốc 
gia Lâm Ấp và xây thành Khu Túc để phòng ngự" (Quốc sử quán trièu Nguyễn, 1969), trong khi "bản lai diện mục" của Khu Túc lại không mấy rõ ràng[3].
2.2. Kết quả khảo sát
2.1. Vị trí-cảnh quan:
Thành
 Lồi hiện nay toạ lạc trên địa phận 2 xã Thuỷ Xuân, Thuỷ Biều và một 
phần của phường Đúc (thành phố Huế), cách trung tâm thành phố khoảng 7km
 về hướng tây. Toà thành này được xây dựng trên đồi Long Thọ, phía tả 
ngạn sông Hương. Về mặt hình thể, quả đồi này uốn cong hình móng ngựa mở
 ra hướng sông Hương. Con đường Huyền Trân Công Chúa được mở cắt ngang 
và chia toà thành ra làm hai nữa, tính trên phương vị tây-đông. So với 
nửa hướng đông, nữa hướng tây còn khá quy chỉnh.
Chếch
 về hướng tây bắc của toà thành, bên kia sông Hương là chùa Thiên Mụ, 
xây dựng trên ngọn đồi Hà Khê. Long Thọ Cương-Hà Khê được các nhà địa lý
 học xem là toả khẩu thứ nhất của sông Hương-đoạn chảy qua thành phố Huế.
Di tích đang khai quật.
Phía
 tây thành Lồi là khe Long Thọ chảy cặp theo luỹ thành hướng tây và đổ 
ra sông Hương. Bao bọc góc thành đông nam và luỹ thành hướng đông là khe
 Đá, cũng uốn khúc đổ ra sông Hương ở địa phận phường Phường Đúc. Nhìn 
trên tổng thể, đây là 2 khe nước chảy theo mùa, mùa mưa thì đầy ắp nước,
 mùa khô thì lại khô cạn chỉ còn lại những đoạn của dòng chảy nông, sâu 
khác nhau. Xa hơn về phía Tây là làng Nguyệt Biều. Ba mặt của vùng khu 
vực này được sông Hương bao bọc như là con hào tự nhiên, tạo nên địa thế
 thuận lợi về giao thông đường thuỷ và chiến lược phòng ngự.


ảnh : Internet
2.2. Cấu trúc
Trên
 tổng thể, thành Lồi được xây dựng trên địa phận làng Dương Xuân Thượng 
(xã Thuỷ Xuân-thành phố Huế), có hình dạng gần vuông, các luỹ thành nằm 
đúng theo phương vị tây – nam – đông - bắc (xem sơ đồ 1). Vùng đồi Dương
 Xuân Thượng có độ cao từ 30m - 50m, thoải dần từ nam xuống bắc, sát với
 giới hạn xâm thực của sông Hương.
Từ
 kết quả khảo sát, căn cứ vào những diễn tiến của các luỹ đất cao và các
 dấu vết gạch vỡ có đặc điểm Chàm phân bố không định hình trong từng 
đoạn tường thành, chúng tôi đo được kích thước các luỹ thành như sau:
-
 Luỹ thành hướng tây dài 350m, nơi rộng nhất 12m, nơi hẹp nhất 8,5m, cao
 3m-3,7m, bề mặt ken đầy dây dại và tre gai, phần lớn được dùng làm đất 
canh tác và trồng cây công nghiệp. Phía bên ngoài là khe Long Thọ rộng 
chừng 2,2m-2,5m, sâu 1,8m, chảy cặp sát chân luỹ thành, đổ ra sông 
Hương. Bên trong luỹ thành, gần góc thành tây-bắc có một hồ nước nhỏ mà 
nhân dân địa phương gọi là hồ Điện. Cách hồ Điện 5m về hướng Bắc là điện
 Voi Ré, từ hồ Điện có một khe nước nhỏ chảy cắt ngang luỹ thành đổ ra 
khe Long Thọ. Hướng đông của hồ Điện là khu Hổ Quyển.
-
 Luỹ thành hướng nam dài 550m, nơi rộng nhất 14m, nơi hẹp nhất 4,5m, cao
 trung bình 2,3m-2,5m. Luỹ thành này chia làm 2 nửa bởi đường Huyền Trân
 Công Chúa:
Nửa
 hướng tây, dọc theo bên trong là khu mộ táng, xen lẫn một số khu vườn 
của dân địa phương. Đạo gần đường Huyền Trân Công Chúa bị cắt xẻ, san 
bạt làm sạt lở, biến dạng (đất được san bạt dùng để đắp bồi nấm mộ của 
các khu mộ táng). Bề mặt luỹ thành, cách góc thành hướng Tây-Nam chừng 
150m là nơi đóng cột mốc bảo vệ di tích của Tổng cục Địa chính Việt Nam.
Nửa
 thành hướng đông bị san bạt nghiêm trọng, Bên trong gần góc đông-nam là
 nhà máy vôi thuỷ Long Thọ, bên ngoài là nhà máy thuốc sát trùng. Trên 
mặt luỹ thành trồng nhiều cây công nghiệp, đoạn thành gần đường Huyền 
Trân Công Chúa bị san bạt, chỉ cao còn 0,8m-1m. Tường thành được đắp 
bằng đất, cách mặt thành 0,5m là lớp đá sa thạch xen lẫn gạch vỡ dày hơn
 1m. Trong quá trình đào móng để xây dựng hai nhà máy này, một số hiện 
vật được phát hiện như vòng bạc, các mãnh gốm và đá vỡ có khắc chữ. Tuy 
nhiên, do tín ngưỡng của dân địa phương, các hiện vật này đều được chôn 
trở lại.
Bên
 ngoài luỹ thành còn dấu tích của một hào nước rất đẹp, rộng khoảng 5m 
nối từ khe Đá đến khe Long Thọ, chảy cặp sát chân luỹ thành. Cách luỹ 
thành khoảng 50m về hướng bắc là miếu Quốc vương Chiêm Thành (miếu bà 
Chăm theo cách gọi dân gian)[4]
 -nằm trong khu mộ táng nhưng ngày nay đã được dời đi nơi khác, thay vào
 đó là một Đài Phật Địa Tạng cao gần 1,8m, xung quanh Phật Đài và rải 
rác trong khu mộ táng là những tảng đá lớn có dấu vết gia công, dài 
50cm, rộng 40cm, cao 20cm. Có lẽ trước đây là đá kiến trúc dùng trong 
miếu Quốc vương Chiêm Thành. 
- Luỹ
 thành hướng đông dài 370m, chạy uốn khúc theo dòng chảy của khe Đá, lấy
 khe Đá làm hào nước tự nhiên. Dọc theo luỹ thành này là khu dân cư, góc
 đông-nam là khu mộ táng lớn, trong khu vực này có nhiều miếu Âm Hồn. Từ
 góc thành đông-nam nhìn ra xa là khu ruộng trũng của nhân dân địa 
phương.
-
 Luỹ thành hướng dài 750m, sát với giới hạn của sông Hương-khi nước cạn 
sông Hương cách luỹ thành 50m-100m, khi nước cường có thể tiến sát đến 
chân luỹ. Luỹ thành này nay đã bị san bạt hoàn toàn làm nhà ở, bên trong
 có một bàu nước nhỏ, nước dẫn từ hồ Điện qua một khu ruộng trũng nối 
với bàu và từ bàu nước này đổ ra sông Hương ở chổ gần Dòng tu Thánh 
Tâm/Nhà thờ Trường Đá.
Với các kích thước của các luỹ thành, trong đợt khảo sát vào tháng 8/1989, Giáo sư Trần Quốc Vượng đã nhận xét:
"[...]
 thành Lồi là một thành Chăm lớn xây dựng trên vùng đồi Dương Xuân 
Thượng: Luỹ Nam 550m, luỹ Đông 370m, luỹ Tây 350m, luỹ Bắc sát với giới 
hạn xâm thực của sông Hương 750m với đầy đủ hệ thống hào, hệ thống thoát
 nước..." [5]
Dựa
 vào một số đoạn tường thành bị cắt xẻ, san bạt làm nhà ở của nhân dân 
địa phương, trong điều kiện không thể cắt thành, chúng tôi cũng có thể 
nhận biết được cấu trúc luỹ thành: được đắp bởi hai lớp đất, ở giữa có 
kè đá và gạch vỡ.
Thành
 Lồi được đắp dựa và lợi dụng triệt để địa hình tự nhiên, vì thế lớp đất
 đắp thêm tạo nên tường thành chỉ cao độ 5m, bên trong có gia cố thêm 
gạch vỡ lẫn đá cuội lớn (rõ nhất là ở luỹ thành nam và tây). Lớp gạch 
được gia cố thêm này thường cách mặt luỹ thành từ 1,8m-2,0m, dày trung 
bình 30cm-50cm, có một số nơi lên đến 1m. So với các toà tành khác, kỹ 
thuật xử lý móng chống sụt lở như ở thành Lồi là điểm khác biệt, tuy 
nhiên, hiện chúng tôi chưa có cơ sở lý giải.
Ngoài
 hệ thống bàu và hào nước trong và ngoài thành, bàu Nguyệt Bàu ở hướng 
Tây và bàu Vá ở hướng Đông được xem là nơi dự trữ nước, điều tiết cho hệ
 thống mương hào bao quanh thành.
Kết
 quả khảo sát, cùng việc đối sánh với những thành Chăm khác trên cùng 
khu vực, chỉ riêng về quy mô, chúng ta thấy rằng, thành Lồi chỉ nhỏ sau 
Hoá Châu thành và lớn hơn gấp nhiều lần Cao Lao Hạ và thành Thuận Châu [6]
Vị
 trí, vai trò lịch sử của Hoá thành, Thuận Châu thành đã phần nào làm 
sáng tỏ qua nhiều công trình nghiên cứu (Nguyễn Xuân Hoa, 1998; Bùi Minh
 Trí, 1997, Chế Thị Hồng Hoa, 1997; Đặng Văn Hồ, 1997; Hoàng Phủ Ngọc 
Tường, 1988; Huỳnh Đình Kết, 1997, Nguyễn Bình, 2003; Đỗ Bang, 1990; 
Trần Văn Tuấn, 1994; Trương Thu Hiền-Hồng Trân, 1993 v.v...), riêng 
thành Lồi và Cao Lao Hạ hiện đang còn rất nhiều nghi vấn. Chính vì thế, 
chúng tôi không loại trừ giả thiết, thành Lồi ở Huế có thể là Khu Túc.
3. Thử xác định vị trí của toà thành trong bối cảnh lịch sử xứ Thuận Hoá buổi đầu
Vùng
 đất Thừa Thiên Huế là nơi còn hiện diện rất nhiều cụm di tích Champa 
khá mật tập, mà trên đại thể, chúng ta có thể phân định:
Khu vực phía Bắc: Vân-Trạch-Hoà, Tháp Đôi Liễu Cốc, thành Hoá Châu cùng với một số di vật khác;
Khu vực đông nam: tháp Linh Thái, quần thể tháp Mỹ Khánh;
Khu vực phía tây: thành Lồi, miếu Bà Chăm, Linh/Thiên Mụ, Hòn Chén/Huệ Nam v.v...
Từ
 sự phân bố này, chúng ta có thể hình dung sự hiện diện của một tiểu 
quốc Champa, mà theo mô hình cấu trúc madala: Tư Hiền/Tư Dung là cửa 
cảng (nơi quy tụ đông đảo bộ phận thương nhân), Linh Thái-Mỹ Khánh là 
thánh địa (hệ thống đền tháp cùng lực lượng nô lệ được đối tượng này sử 
dụng để dâng cúng thần linh trong tín ngưỡng của họ) (Trần Kỳ Phương, 
2005, Nguyễn Hữu Thông, 2005). Phía thượng nguồn sông Hương, một khu 
thánh địa thứ hai cũng dần được sáng định qua sự hiện diện của "khu vực 
thiêng" mang nhiều dấu tích Chăm: Linh Mụ-Hòn Chén-Kim Phụng, mà đối 
diện với nó là thành Lồi, qua toả khẩu thứ nhất của dòng sông. Bên cạnh ý
 kiến của cố GS. Trần Quốc Vượng sau nhiều đợt khảo sát (1998: 334), 
những dòng mô tả trong sử liệu triều Nguyễn khiến chúng ta liên tưởng 
đến việc khu vực này từng là thánh địa trong lòng người dân Chăm, bởi 
ngoài ra, không còn cách giải thích nào khác:
"Tháng
 8 mùa thu 1692, vua nước Chiêm Thành là bà Tranh làm phản, họp quân đắp
 luỹ, cướp giết hại dân ở phủ Diên Ninh. Chúa sai Nguyễn Hữu Kính làm 
thống binh, lấy văn chức Nguyễn Đình Quang làm tham mưu suất lãnh quân 
chính dinh, cùng với quân Quảng Nam và Bình Khang đi đánh. Tháng 2/1693,
 Nguyễn Hữu Kính đánh bại Chiêm Thành, Bà Tranh bỏ chạy và đến tháng 
3/1693, Nguyễn Hữu Kính bắt được Bà Tranh cùng bầy tôi là Tả Trà Viên Kế
 Bà Tử với thân thuộc là Nàng Mi Bà Ân đem về. Tháng 7/1693, Nguyễn Hữu 
Kính mới dâng chiến tù Chiêm là bọn Bà Tranh lên chúa. Chúa sai kể tội 
rồi giam ở núi Ngọc Trản" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1962:147)
Đoạn
 chính sử này gợi cho chúng ta sự liên tưởng đến mối quan hệ về nguồn 
gốc giữa núi Ngọc Trản với những di tích Chàm còn sót lại hay cũng có 
thể có mối tương quan với bộ phận cư dân Champa tiền trú. Bởi theo chiều
 luận suy, để tạo sự bình ổn về mặt tâm lý và không gây nên sự chống đối
 từ vị vua Chămpa, nhất thiết ở đó phải có những di tích phù hợp với 
niềm tin tín ngưỡng hay những người đồng tộc còn "bám trụ" trước những 
đợt Nam tiến của người Việt. Trong lịch sử di dân lập làng ở Thừa Thiên 
Huế hay miền Trung nói chung, hiện tượng kế thừa và phát triển vùng cư 
trú Việt trên những điểm tụ cư, những palây Chàm vốn có 
không phải là dị biệt. Và truyền thuyết cũng truyền tụng, về sau, vị vua
 Chàm xấu số ấy chết và được chôn ngay ở nơi bị giam cầm. Tuy nhiên, địa
 điểm cụ thể lại không mấy rõ ràng.
Từ
 đó, hình ảnh của toà thành Champa được gọi một cách phiếm xưng tên 
"Lồi" ở phía bên kia dòng sông, trong mối quan hệ tương quan với Hoá 
Châu thành, cùng khu thánh địa Linh Mụ-Hòn Chén-Kim Phụng chỉ có thể 
được hiểu là nơi đồn trú quân sự ở khu vực phía tây của tiẻu quốc; hoặc 
là một trung tâm hành chính-kinh tế khác (ngoài Hoá Châu), tồn tại ở khu
 vực phía tây, bởi lịch sử cũng đã từng ghi nhận những biểu hiện dị 
biệt, tuỳ thuộc vào đặc thù của từng tiểu vùng, căn cứ trên mẫu số 
chung: những yếu tố cần thiết cấu thành một madala ở miền 
Trung Việt Nam. Và về sau, nó được người Việt kế thừa sử dụng với cùng 
mục đích, tương tự như diễn trình của rất nhiều toà thành Champa khác 
trên cùng khu vực trong bối cảnh lịch sử xứ Thuận Hoá buổi đầu (xem 
thêm: Hoàng Bảo-Tôn Nữ Khánh Trang, 2001; MyDan-Lê Chí Xuân Minh,2001)
Trong
 thời gian gần đây, rất nhiều công trình nghiên cứu từng giải thích về 
sự hiện diện, cấu trúc của một vương quốc Chămpa thống nhất, mà lịch sử 
từng phân định thành Bắc Chăm và Nam Chăm, kể cả việc lý giải thành phần
 cư dân, sự biến động dân cư của vương quốc này sau nhiều đợt Nam tiến 
của cư dân Việt (Nguyễn Hữu Thông, 2002, 2004, 2005; Nguyễn Hữu Thông 
[cb], 2004, 2005v.v...). Những kết quả nghiên cứu khiến chúng tôi cho 
rằng, thành Lồi hiện nay chính là "sản phẩm của cư dân vương quốc Chăm",
 mà cụ thể hơn chính là của các tộc người tiểu số hiện đang cư trú ở 
phía tây tỉnh Thừa Thiên Huế. Bên trong cương vực toà thành vốn từng 
hiện diện miếu thờ Quốc Vương Chiêm Thành mà dân gian thường gọi là miếu
 Bà Chăm như chúng tôi từng đề cập. Điều đặc biệt là người dân Huế từng 
ghi nhận sự gắn bó mật thiết của người thiểu số với ngôi miếu thờ, khi 
hàng năm, từng đoàn người Thượng mang lễ vật về đây cúng tế, và đặc biệt
 hơn, qua sự kiện người Pháp cho mở đường và san ủi ngôi miếu. Việc làm 
này đã dẫn đến kết quả là hàng trăm người thiểu số kéo về "ăn vạ" trước 
toà Khâm Sứ, buộc chính quyền phải cho xây lại ở vị trí liền kề làm nơi 
cúng tế của họ. Vấn đề chính là mối quan hệ thiết thân giữa một bộ phận 
người và tâm linh của họ. Đây cũng chính là cơ sở để chúng tôi tích hợp 
khu vực này vào lý thuyết hệ thống mô hình trao đổi ven sông.
Bởi
 những ấn định của địa lý- tự nhiên, hệ thống mạng lưới trao đổi ven 
sông là một mô hình đặc thù, khá phổ biến ở khu vực các vương quốc cổ ở 
Đông Nam Á và miền Trung Việt Nam nói riêng (Bronson, Bennet, 1997; 
Wolters O.W, 1999; Nguyễn Hữu Thông, 2004; Nguyễn Hữu Thông [cb], 2004; 
Nguyễn Hữu Thông [cb], 2005; Trần Kỳ Phương, 2004). Mô hình này được 
thiết lập trên trục thuỷ lộ, tồn tại trên cơ sở kinh tế thương nghiệp 
với nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ thượng nguồn sông và kết thúc ở 
cảng thị. Hoạt động của mạng lưới này được xem là hành trình từ quán gió
 (nơi trao đổi của các tộc người thiểu số khu vực phía tây) đến hải 
cảng. Đây cũng chính là cơ sở kinh tế chủ yếu, mang lại sự phồn thịnh 
cho các tiểu quốc Chămpa một thời[7] .
Sự
 hiện của toà thành đất nằm cạnh trục lộ sông Hương có vẻ như đơn lẻ, 
nếu chúng ta không nhìn nó trong mối tương quan của khu vực núi rừng 
phía tây và cảng thị ở phía đông của tỉnh. Từ kết quả của rất nhiều đợt 
điền dã, chúng tôi đã phần nào xác định một mạng lưới trao đổi từng tồn 
tại ở địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số hiện nay. Chính sự tồn 
tại của mạng lưới này vào một giai đoạn lịch sử nhất định đã là tác nhân
 làm nên sự phồn thịnh của các cộng đồng tộc người trong quá khứ (Nguyễn
 Hữu Thông [cb], 2004, 2005). Và từ rất nhiều chứng nhân, người thiểu 
số, ngoài việc tham gia vaò mạng lưới tao đổi mà điểm đến ở phía đông 
như đồn Tuần, khu vực Gia Hội-Bao Vinh, Phường Đúc Huế, Cam Lộ (Quảng 
Trị) v.v..., họ còn là bộ phận tích hợp vào một mạng lưới rộng lớn hơn, 
lan toả sang cả Lào, Campuchia, Thái, Miến v.v..., nói chung là khu vực 
đông Mékong. Trong ký ức của những già làng Pacod-Tà Ôi hiện nay, họ 
từng là người tham gia hoặc chứng kiến nhiều đoàn voi trao đổi, buôn bán
 của người Tà Ôi, quy tụ nguồn hàng lâm thổ sản dùng trao đổi với nhiều 
đối tượng, mà người Kinh là một trong số đó (Tài liệu điền dã, tháng 
8/2004).
Ngoài
 lệ cống nạp thường niên cho triều đình phong kiến Nguyễn, ký ức người 
Huế cũng thường nhắc đến sự hiện diện của nhiều đoàn người Thượng, gùi 
theo lâm thổ sản: bo bo, ý dĩ, bạch đậu khấu, trầm hương, mật, sáp ong, 
sừng tê, ngà voi, mây rừng v.v...hay các vị thuốc quý dùng trong y học, 
về trao đổi ở các khu chợ phiên, hiếm hoi ở các khu chợ thị và cả trung 
tâm thành phố. Những thứ họ mua về là muối, mắm v.v...dùng trong sinh 
hoạt thường nhật; bạc mã não, chiêng, ché v.v...những chuẩn mực xác định
 vị thế xã hội của họ. Với những đoàn người mang hàng trao đổi này, đồn 
Tuần ở phía thượng nguồn sông Hương là "cửa ải" buộc phải đối diện, bởi 
đấy là nơi trực tiếp quản lý nhân dân và lộ trình của họ.
Chúng
 ta nhận thấy rằng, địa bàn cư trú của các tộc người thiểu số phía tây 
Thừa Thiên Huế án ngữ trên vùng đầu nguồn, nơi phát nguyên của hệ thuỷ 
lộ dẫn đến các của cảng và cũng là nơi phát nguyên của những dòng sông 
chảy về hướng tây, trên đất Lào. Cảng biển miền Trung từng được ghi nhận
 là trung tâm của nhiều đầu mối kinh tế, nơi diễn ra nhiều hoạt động 
trao đổi tấp nập của bản địa với những đoàn hải thương nước ngoài, mà 
mặt hàng luôn nhắm đến là lâm thổ sản (Li Tana, 1999). Trên mối tương 
quan đông tây, con đường hàng hoá, hay một mạng lưới trao đổi đã từng 
tồn tại, đấy là con đường của nhu yếu phẩm, sản phẩm thủ công miền đồng 
bằng đi đến thượng du, và cũng là sinh lộ tạo nên sức sống cho các của 
cảng. Trên cơ sở lý thuyết mạng lưới trao đổi ven sông từng đề cập, 
chúng tôi cho rằng, có thể thành Lồi ở Huế là trung tâm quản lý một cấp 
độ trao đổi dọc trục lộ Hương Giang-địa điểm hoạt động của tầng lớp 
thương lái đóng vai trò quy tụ nguồn hàng trao đổi, cùng với sự gắn kết 
mật thiết với bộ phận người thiểu số.
KẾT LUẬN
Từ
 những nguồn tư liệu chúng tôi có thể tiếp cận, toà thành Lồi ở Huế hiện
 nay là trung tâm đồn trú quân sự của một tiểu quốc Chăm từng tồn tại 
trên địa bàn, và là trung tâm quản lý của một cấp độ trong hệ thống mạng
 lưới trao đổi ven sông, vốn rất phổ biến ở khu vực miền Trung thời kỳ 
Chămpa-trong mối tương quan khu vực, mà Thừa Thiên Huế không là ngoại 
lệ.
Tuy
 nhiên, về tên gọi của tiểu quốc này, hay toà thành Lồi là trung tâm 
quản lý ở cấp độ nào trong mạng lưới trao đổi, cần có những nghiên cứu 
chuyên sâu hơn nữa để có thể khẳng định chân xác. 
[1] Về ngữ nghĩa của từ "lồi" (thành lồi, miếu lồi, tượng Phật lồi v.v ) xin xem thêm: Tạ Chí Đại Trường, 2006; Hoàng Dũng, 1991; Nguyễn Hữu Thông, 1994; Nguyễn Phước Bảo Đàn, 1999, 2001a, 2001b v.v...
[2] Xem Trần Kỳ Phương, 2005, "Bước đầu xác định danh hiểu các tiểu quốc thuộc miền Bắc vương quốc cổ Chiêm Thành khoảng giữa thế kỷ 11-15", trong Tạp chí Nghiên cứu và phát triển, Huế: Sở Khoa Học & Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 1 (45): 26-32.
[3] Về thành Khu Túc:
- Đại Nam nhất thống chí-mục cổ tích-tỉnh Quảng Bình lại chép: "phế
 thành Lâm Ấp ở xã Trung Ái, huyện Bình Chính, từ núi Thành Thang chạy 
dài đến các xã Tô Xá, Vân Tập, Phù Lưu, vượt núi qua khe, đều có ụ đất, 
đứt từng đoạn, tương truyền đó là thành Lâm Ấp, phía Nam có Linh Thuỷ, 
nghi đây là thành Khu Túc hoặc luỹ cũ của Hoàn Vương" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1969).
- Thuỷ Kinh chú sớ: "[...]
 hai con sông Lô Dung và Thọ Linh. Sông Lô Dung ra từ núi cao ở phía Nam
 thành Khu Túc chảy về phía tây nam. Ở phía nam núi, dãy núi dài tiếp 
liền với các ngọn núi ở phía Tây như bức màn che tự nhiên. Sông Lô Dung 
gom nước ở núi Ẩn Sơn đi vòng quanh phía tây, bao phía bắc, rồi chảy về 
phía đông đi qua phía bắc thành Khu Túc, lại chảy về phía đông, hợp với 
sông Thọ Linh ở phía bên phải, sông ra từ biên giới huyện Thọ Linh" (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ...,2005: 358-359).
"Thành
 Khu Túc là tên thành của nước Lâm Ấp cổ. Xưa ta quen gọi là thành Khu 
Túc, chính ra phải gọi là thành Âu Túc. Âu là khu viết chữ Hán như nhau 
nhưng có hai âm đọc: một là khu, một là âu (đơn vị đo lường, một âu bằng
 16 thăng). Một thuyết nói thành này ở bờ nam sông Hương tỉnh Thừa 
Thiên, một thuyết nói ở thôn Cao Lao Hạ ở bờ nam sông Gianh tỉnh Quảng 
Bình nước Việt Nam ngày nay. Chu vi thành khoảng hơn 6 dặm, ở khoảng 
giữa ba con sông, 3 phía giáp núi, phía bắc, phía nam trông xuống sông, 
hình thế hiểm yếu (theo Từ Hải) (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ...2005: 361).
"Thành
 ấy phía ngoài hào thành là rừng cây có gai rậm rạp, các loài cây tạp um
 tùm, mây gai cuộn, trúc quế sinh. Hội Trinh chú: quế là tên một loại 
trúc. Theo Trung Sơn kinh, núi Bính Sơn có nhiều cây trúc quế, chen nhau
 mọc ngút trời, trong đó cây quế thơm mọc thành rừng, không khí trong 
sạch, mây mù lắng đọng" (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sở..., 2005: 385-386).
"[...]
 thành Khu Túc phía nam sông Hoài, đi lên phía bắc sông Hoài, phải qua 
Bành Long; lại đi lên phía bắc đến Khu Túc, thành Khu Túc ở biên giới 
phía bắc thành Lâm Ấp, thành Khu Túc cách thành Lâm Ấp hơn 400 dặm (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ...2005: 388)
Về quy mô của Khu Túc, rất nhiều sử liệu đầu thống nhất ở quy mô của toà thành rất lớn:
- "Thành
 Khu Túc: chu vi 6 dặm, 170 bộ, đông tây đo được650 bộ, thành xây bằng 
gạch cao 2 trượng, ở trên xây tường gạch cao một trượng trổ lỗ vuông. 
Trên gạch thì lát ván, trên ván có gác 5 tầng, trên gác có mái, trên mái
 có lầu, lầu cái cao là 7,8 trượng; cái thấp là 5,6 trượng... Thành mở 
13 cửa, các điện đều hướng về phía nam...nhà có hơn 2100 gian, chợ búa 
dân cư ở xung quanh. Núi đá cao rất hiểm trở, cho nên binh khí, chiến cụ
 của nước Lâm Ấp đều để tất cả tại thành Khu Túc. Có nhiều thành luỹ, 
bắt đầu từ vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt" (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ...2005: 362).
- "Theo An Nam chí lược, "trong
 thành có thành nhỏ, cuh vi 320 bộ, tất cả nhà đều là điện lợp ngói, 
tường phía nam không mở, nhà dài ở hai đầu, nóc nhà theo chiều nam bắc. 
Phần giống như mặt sau của phía nam gọi là thành ở khu tây, trong thành 
có núi đá, thuận theo dòng sông Hoài, mặt hướng về phía Nam, điện mở cửa
 về hướng đông, nào mái đuôi diều, nào cửa xanh thềm đỏ, nào rui dài xà 
vuông, phần nhiều làm theo lối cổ. Cột trên của điện gác cao hơn thành 
1,5 trượng, tường trát phân trâu, màu xanh lục vòng quanh, của nách 
cong, của sổ đẹp, buồng Hoàng hậu ở có của sổ màu tím, buồng các cung 
tần không có gì khác, cung quán [...], lộ tẩm [...], vĩnh hạng [...]. 
Nhà có hơn 50 khu, thành dài liên tiếp, nhà cửa nối tiếp nhau. Đền thần,
 tháp quỷ lớn, nhỏ, 8 ngôi, trên đài cao có tạ [nhà gỗ làm trên đài cao]
 tầng, hình giống như chùa thờ Phật. Thành ngoài không có phố xá, làng 
xóm, thôn ấp it có người ở, bờ biền tiêu điều, không phải là nơi nhân 
dân ở được, thế mà người cầm đầu vẫn ở yên lâu dài, duy trì nước được 10
 đời, há có thể tồn tại lâu dài được nữa ư (Thời Nguyên Gia, Đàn Hoà Chi
 đánh Lâm Ấp, Dương Mại vua nước ấy ban đêm đem cả nước chạy vào rừng, 
Hoà Chi chiếm được thành ấp của họ, thu được của báu rất nhiều)" (Lịch Đạo Nguyên chú, Dương Thủ Kính, Hùng Hội Trinh sớ...2005: 384).
 
"Miếu
 thờ Quốc vương Chiêm Thành: Ở xã Nguyệt Biều, huyện Hương Thuỷ, thờ vua
 Chiêm Thành. Ở xã Nguyệt Biều, xưa có một đoạn thành đất , tương truyền
 là nền cũ của Chiêm Thành, năm Minh Mệnh thứ 14 dựng miếu để thờ, hàng 
năm tế vào hai tháng trọng xuân và trọng thu" (Quốc sử quán triều Nguyễn, 1997: 72).
 [5] Trần Quốc Vượng, 1996: Theo dòng lịch sử- Những vùng đất thần và tâm thức người Việt, Hà Nội: Nxb. Văn Hoá, trang 449.
 [6] Xem thêm: Nguyễn Phước Bảo Đàn, 2001, Hoàng Bảo, 2001; Hoàng Bảo-Tôn Nữ Khánh Trang, 2001; MyDan-Lê Chí Xuân Minh, 2001.
[7] Hệ thống trao đổi ven sông có một vùng duyên hải là cơ sở cho một trung tâm thương mại thường toạ lạc ở một cửa sông, là trung tâm giao dịch hải thượng quốc tế và là điểm nối kết các cửa sông khác của khu vực lân cận. Các trung tâm khác được thiết lập ở dọc sông và thượng nguồn làm nơi tập trung nguồn hàng theo nhiều cấp độ và tính chất thương nghiệp khác nhau.
[7] Hệ thống trao đổi ven sông có một vùng duyên hải là cơ sở cho một trung tâm thương mại thường toạ lạc ở một cửa sông, là trung tâm giao dịch hải thượng quốc tế và là điểm nối kết các cửa sông khác của khu vực lân cận. Các trung tâm khác được thiết lập ở dọc sông và thượng nguồn làm nơi tập trung nguồn hàng theo nhiều cấp độ và tính chất thương nghiệp khác nhau.
Mô hình mạng lưới trao đổi ven sông ở khu vực miền Trung Việt Nam thường diẽn ra dưới 4 cấp độ:
-
 Cấp độ 1: Điểm xa nhất, cuối cùng của mạng lưới chính là địa bàn cư trú
 của các tộc người thiểu số. Lâm thổ sản được họ khai thác và trao đổi 
bằng hình thức vật đổi vật (mang tính không chuyên nghiệp) với thương 
lái theo nhu cầu (phi thương nghiệp). 
-
 Cấp độ 2: Hình thức trao đổi căn cứ trên giá trị mặt hàng bắt đầu xuất 
hiện với sự tồn tại của vật ngang giá, nhưng vẫn mang tính chất phi 
thương nghiệp.
-
 Cấp độ 3: Xuất hiện các đối tượng thương nhân nậu hàng, tích luỹ vật 
phẩm bằng hình thức trao đổi, tính chất thương nghiệp rõ dần. 
-
 Cấp độ 4: Chỉ tồn tại ở cảng thị, hàng hoá được tập trung và buôn bán, 
trao đổi, thương nhân thu lợi nhuận từ sự chênh lệch giá cả, tính chất 
thương nghiệp rất rõ. Đây cũng chính là điểm xuất-nhập hoá dùng trong 
trao đổi đối lưu. (xem thêm: Nguyễn Hữu Thông [cb], 2004: 217; Nguyễn 
Hữu Thông [cb], 2005).
Tài liệu tham khảo
1. Bùi Minh Trí (1997), Báo cáo sơ bộ điều tra nghiên cứu khảo cổ học thành cố Hoá châu tháng 7/1997.
2. Chế Thị Hồng Hoa (1998), "Dấu tích văn hoá Chămpa trên đất Thừa Thiên Huế", trong Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật, số 9: 34-36.
3. Đặng Văn Hồ (1997), "Dấu ấn Champa trên đất Quảng Điền", trong tạp chí Huế xưa & nay, số 22: 90-94. 
4. Đặng Xuân Bảng (1997), sử học bị khảo (Thiên văn khảo, Địa lý khảo, Quan chế khảo), Hà Nội: Trung Tâm Khoa Học Xã Hội & Nhân văn Quốc gia-Viện Sử Học Việt Nam & Nxb. Văn Hoá -Thông Tin.
5. Đào Duy Anh (194), Đất nước Việt Nam qua các đời-Nghiên cứu Địa lý học Lịch sử Việt Nam, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
6. Đỗ Bang (1990), "Thành Thuận Châu thời Trần", trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1989, Hà Nội: Viện khảo cổ học.
7. Đỗ Văn Ninh (1983), Thành cổ Việt Nam. Hà Nội: Nxb: Khoa học xã hội.
8. Hoàng Bảo-Tôn Nữ Khánh Trang (2001), "Di tích thành Lồi (Thuỷ Xuân-Thành phố Huế)", trong Thành Luỹ cổ ở khu vực Bình Trị Thiên [Kỳ yếu TĐKH], Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế: 86-98.
9. Hoàng Bảo (2001), "Thành Thuận Châu (xã Triệu Thuận-huyện Triệu Phong-tỉnh Quảng Trị)"trong Thành Luỹ cổ ở khu vực Bình Trị Thiên [Kỳ yếu TĐKH], Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế: 53-65. 
10. Hoàng Dũng (1991), "Qua địa danh thành Lồi ở Huế thử xác định một danh xưng chỉ người Chàm xưa", trong Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên Huế, Huế: Sở Khoa học Công nghệ & Môi trường, số 02.
11.
 Hoàng Phủ Ngọc Tường (1988), "Phác thảo về quá trình phát triển của văn
 hoá Phú Xuân: thời kỳ thứ nhất với trung tâm thành châu Hoá", trong Tạp chí Sông Hương, số 30-31: 75-81.
12. Huỳnh Đình Kết (1997), "Thành Hoá Châu qua kết quả khai quật kết quả khai quật khảo cổ học lần thứ nhất", trong Tạp chí Việt Nam & Đông Nam Á ngày nay, số 16 (kỳ 1 tháng 9): 46-47. 
13. Lê Đình Phụng (1998), "Thành Hoá Châu trong lịch sử", trong Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên Huế , Huế: Sở Khoa học Công nghệ & Môi trường, số 01: 62-67.
14. Lê Văn Hảo (1979), "Vài suy nghĩ về quá trình gắn bó và hoà hợp Việt-Chăm trong lịch sử dân tộc", trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 3.
15. Li Tana [Nguyễn Nghị dịch] (1999), xứ Đàng Trong: Lịch sử kinh tế xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ.
16. Lịch Đạo Nguyên chú-Dương Thủ Kính, Hùng Trội Trinh sớ-Đoàn Hy Trọng điểm hiệu -Trần Kiều Dịch phúc hiệu (2005), Thuỷ Kinh Chú sớ (Nguyễn Bá Mão dịch), Hà Nội: Nxb. Thuận Hoá-Trung tâm Văn hoá Ngôn Ngữ Đông Tây.
17. Maspero.G (1928), Le royaume du Champa (Vương quốc Champa), Paris, bản dịch Lê Tử Thành.
18. Momoki Shiro (2003), "Đại Việt và thương mại ở biển Đông từ thế kỷ X đến thế kỷ XV", trong Đông Á và Đông Nam Á, những vấn đề lịch sử và hiện tại [Kỳ yếu TĐKH], Trường Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 28/3: 211-225.
19. MyDan-Lê Chí Xuân Minh (2001), "Thành cổ Hóa Châu (xã Quảng Thành- huyện Quảng Điền-tỉnh Thừa Thiên Huế)", trong Thành luỹ cổ ở khu vực Bình Trị Thiên [Kỳ yếu TĐKH], Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế; 66-68.
20. Ngô Văn Doanh (2001), "Thành Nhà Ngo ở Quảng Bình" trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 5 (318).
21.Ngô Văn Doanh (2003), "Thành Khu Túc và những dấu hiệu ở Cao Lao Hạ", trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (327): 14-17.
22. Ngô Văn Doanh (2005), "Thành Châu Sa-Cổ Luỹ và quan hệ Champa-Srivijaya", trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2 (345).
23. Nguyễn Bình (2003), "Khảo sát một số thành luỹ cổ ở Quảng Trị", trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (331): 15-24.
24. Nguyễn Hữu Thông (1996), "Bức tranh dân cư vùng Thuận Hóa đầu thế kỷ XV qua văn bản "Thỉ Thiên tự", trong Tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên Huế, Huế: Sở Khoa học Công nghệ & Môi trường.
25.
 Nguyễn Hữu Thông (2001), "Một số suy nghĩ về đặc điểm và hướng bảo tồn 
những dấu tích văn hoá vùng cực Bắc vương quốc Champa xưa", trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế, số tháng3.
26. Nguyễn Hữu Thông (2002), "Vùng đất bắc miền Trung: những cảm nhận bước đầu", trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật tại Huế, số tháng 9.
27.Nguyễn Hữu Thông (2004), "Tiếp cận vấn đề nghiên cứu văn hoá làng các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam", trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá-Thông tin tại Huế, số tháng3: 18-32.
28. Nguyễn Hữu Thông (2005), "Duyên hải miền Trung-Trường Sơn-Tây Nguyên: một chỉnh thể trong đa dạng" (phần 1), trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân viện Nghiên cứu Văn hoá-Thông tin tại Huế, số tháng9: 7-16.
29.Nguyễn Hữu Thông [chủ biên]-Nguyễn Phước Bảo Đàn-Lê Anh Tuấn-Trần Đức Sáng (2005), Katu-kẻ sống đầu ngọn nước, Huế: Nxb. Thu
Hổ quyền
   Huế xưa và nay - Hổ
 quyền là đấu trường được xây dựng để tổ chức những trận đấu giữa voi và
 cọp cho vua, hoàng gia và các quan lại đến xem và giải trí. Trường đấu 
Hổ quyền được xây dựng năm 1830, ở bên bờ Nam sông Hương, cách kinh 
thành Huế 4km.
  
 Đây là một công trình kiến trúc độc đáo, không có mái che, đồ sộ, kiên 
cố như một thành trì. Trường đấu gồm 2 vòng tường thành hình tròn đồng 
tâm xây bằng gạch vồ, trát vôi vữa. Tường dày 1,1m ở nền và 0,5m ở đỉnh.
 Đường kính của vòng tường ngoài là 45m, chu vi 140m, cao 4,5m. Vòng 
tường trong có đường kính 35m, chu vi 110m, cao 6m. Hai vòng tường cách 
nhau 4m ở nền và 3m ở đỉnh. Khoảng giữa hai vòng tường được đắp đất 
ngang chiều cao của vòng tường ngoài tạo thành con đường đất chạy vòng 
tròn phía trên đấu trường (chỉ gián đoạn ở khán đài vua ngồi). Từ dưới 
chân tường có hai cầu thang để đi lên mặt con đường đất. Cầu thang thứ 1
 có 20 bậc dành cho vua và Hoàng gia. Khán đài là một khu đất hình chữ 
nhật 96m2, cao 1,5m so với mặt đường đất. Từ trên khán đài nhìn xuống 
người ta thấy khu lồng chảo của trường đấu. Cầu thang thứ 2 có 15 bậc 
dành cho lính và dân lên xem. Khoản giữa hai cầu thang là một lối vào 
rộng 1,9m, cao 3,9m dành cho voi đi vào trường đấu. Con đường chạy vòng 
tròn bên trên cửa vòm này được thu hẹp lại bằng một chiếc cầu nhỏ bắt 
qua vòm cửa. Dưới là một bộ cửa lớn, có 2 cánh, các bản lề bằng đá nay 
còn nguyên vẹn. Đối diện với khán đài dành cho vua ở bên kia của đấu 
trường là 5 cái chuồng cho Hổ (cọp) và Báo. Phía trên cái chuồng ở chính
 giữa có một tấm biển bằng đá chạm hai chữ hán: “Hổ quyền”.
Hổ quyền xưa - nơi Voi và hổ giao đấu
  
 Các cuộc đấu giữa voi và hổ là một thú vui giải trí cho vua chúa có từ 
lâu đời. Dưới thời các chúa Nguyễn, những trận đấu giữa voi và cọp được 
tổ chức ở cồn Dã Viên trên sông Hương. Thời vua Gia Long (1802 – 1819) 
các trận đấu diễn ra ở bãi đất trống trước mặt kinh thành. Triều đình 
bắt lính cầm khí giới đứng thành một vòng tròn để làm hàng rào cho đấu 
trường. Cách làm này đe dọa tính mạng của nhiều người nên đến năm 1830, 
năm Canh dần, Minh Mạng cho xây đấu trường này. Ngày xưa các trận đấu 
tại Hổ quyền được tổ chức hàng năm, nhưng cũng tùy sở thích của các ông 
vua nhà Nguyễn. Trận đấu cuối cùng tại đây diễn ra vào năm 1904 dưới 
thời vua Thành Thái. Đấu trường Hổ quyền là một công trình kiến trúc độc
 đáo hiếm thấy ở Đông Nam Á. Tuy nó không đồ sộ như những đấu trường 
thời đại đê quốc La Mã nhưng nó cũng có dáng dấp đặc sắc và tạo được một
 không khí thượng võ, uy nghiêm…
Theo Lê Văn Phúc  (Huế - di tích lịch sử  - văn hóa - danh thắng)
Điện Voi Ré (Miếu Long Châu)
Viết bởi huexuavanay2
   Huế xưa và nay - Điện
 Voi Ré hay còn có tên gọi là miếu Long Châu tọa lạc cách trung tâm 
thành phố Huế khoảng 5 km về phía Tây-Nam, trên địa phận thôn Trường Đá 
thuộc xã Thủy Biều. Đây là chứng tích một thời của đội Kinh tượng nhà 
Nguyễn, vừa là một di tích độc đáo thuộc quần thể di tích cố đô Huế.
  
 Theo truyền thuyết, dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, trong một trận
 giao tranh với quân đội Đàng Ngoài, một dũng tướng của Đàng Trong hy 
sinh giữa trận tiền. Đau buồn trước cái chết của chủ, con voi của vị 
dũng tướng đã chạy trên một quãng đường dài hằng trăm dặm từ chiến địa 
về tận thủ phủ Phú Xuân, đến địa điểm phía đông của đồi Thọ Cương, nó đã
 rống lên một tiếng vang trời như phẫn uất, như đau thương cùng cực rồi 
phủ xuống trút hơi thở cuối cùng. Cảm động trước sự trung thành của một 
con vật có nghĩa, dân địa phương đã làm lễ an táng, xây mộ cho nó, nguời
 ta vẫn gọi một cách mộc mạc là mộ Voi Ré. Sau khi lên ngôi, vua Gia 
Long đã cho xây dựng bên cạnh mộ con voi một ngôi điện thờ với tên gọi 
là Long Châu Miếu để thờ các vị thần bảo vệ và miếu thờ bốn con voi dũng
 cảm nhất trong chiến trận của triều Nguyễn. Từ truyền thuyết và sự kiện
 lịch sử như vậy, dân gian quen gọi ngôi miếu này là điện Voi Ré.
Cổng tam quan ở điện Voi Ré
  
 Điện Voi Ré tọa lạc trên một khu đất rộng, diện tích chừng 2.000m2, nằm
 về phía Đông-Nam đồi Thọ Cương. Cũng theo những nguyên tắc chung về 
thuật phong thủy của Đông phương, người ta vận dụng Thành Lồi (thành cũ 
của người Chàm) có sẵn để làm bình phong che chắn cho ngôi điện; tiếp 
đến là hồ Điện tạo nên yếu tố thủy (minh đường) và tăng thêm giá trị mỹ 
học cho công trình. Với diện tích khoảng 1.000m², độ sâu chừng 3m, hai 
bên không kè đá, mặt hồ từng tràn ngập những đóa sen thơm ngát. Tương 
truyền các Quản tượng ngày xưa thường đưa voi đến uống nước ở chiếc hồ 
này trước mỗi trận đấu giữa voi và cọp tổ chức tại Hổ Quyền. Đây là một 
hành động mang tính lễ nghi và tâm linh, có thể người ta nghĩ rằng làm 
như vậy khiến những con voi sẽ tăng thêm dũng khí và sự may mắn sẽ đến 
với chúng trong trận quyết đấu.
Phía Bắc là miếu Long Châu cổ kính thâm u; phía Nam có cổng tam quan rêu phong tĩnh mịch. Phía trước cổng tam quan có hệ thống bậc cấp đi lên gồm 17 bậc; bên trên chính giữa ở lối chính có ba chữ Hán bằng sành “Nghiễm Nhược Lâm”. Thẳng theo lối chính, người ta sẽ bắt gặp một bức bình phong Long Mã rất đẹp trước khi vào đến sân miếu.
Phía Bắc là miếu Long Châu cổ kính thâm u; phía Nam có cổng tam quan rêu phong tĩnh mịch. Phía trước cổng tam quan có hệ thống bậc cấp đi lên gồm 17 bậc; bên trên chính giữa ở lối chính có ba chữ Hán bằng sành “Nghiễm Nhược Lâm”. Thẳng theo lối chính, người ta sẽ bắt gặp một bức bình phong Long Mã rất đẹp trước khi vào đến sân miếu.
Đông Phối điện ở điện Voi Ré
  
 Nằm hai bên miếu Long Châu là hai ngôi nhà thờ phụ thường được gọi là 
Đông Phối Điện và Tây Phối Điện. Hai ngôi nhà này dùng làm nơi thờ những
 con voi lập được nhiều chiến công trong trận mạc vào thời kỳ quật khởi 
dựng xây đế nghiệp của Nguyễn triều, và đồng thời đây cũng làm nơi khoản
 đãi quan khách sau khi tế lễ. Trước hai ngôi nhà này, còn có hai tòa 
miếu phụ thờ thần vị voi, còn được gọi là miếu Tượng. Cách miếu Tượng 
khoảng 2m là miếu thờ tượng voi chế tác tinh xảo bằng đá Thanh, cao 
khoảng 0,7m.
Công trình kiến trúc quan trọng nhất trong khu vực này là Miếu Long Châu. Cũng như các công trình kiến trúc cung đình khác, miếu Long Châu được xây dựng theo kiểu nhà truyền thống trùng thiềm điệp ốc. Nhà chính gồm năm gian hai chái, mái lợp ngói liệt. Bên trong trang trí bằng hệ thống liên ba bằng gỗ với 104 ô hộc trình bày đơn giản hơn nhiều so với những cung điện khác, chủ yếu là chữ Thọ theo lối triện và hoa lá chim muông. Treo chính giữa ngôi miếu là một bức hoành phi khắc nổi ba chữ Hán màu vàng rất sắc sảo “Long Châu Miếu”. Bức hoành phi này được làm lại mới vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Theo tư liệu của những nhà nghiên cứu trước, phần hậu điện của ngôi miếu có thờ 15 vị thần hộ vệ và tất cả đều thờ bằng bài vị. Hiện nay, trong miếu chỉ còn lại bài vị của 4 vị thần là: thần Thiên Sư, thần Chúa Động, thần Hồng Nương, thần Tiền Hậu Khai Khẩn. Mỗi bài vị được đặt trong một cái khám giống như một chiếc ngai cách điệu trông rất uy nghiêm. Nguyên thủy, còn có bài vị của các vị thần trong tín ngưỡng dân gian như các thần Hà Bá, Thổ Công, Ngũ Hành, Thủy Long Ngọc Nữ...
Ngoài ra, trước đây ở hai miếu hai bên phía trước còn có bốn bài vị khác đề tên tước hiệu được phong của bốn con voi lập nhiều công trạng nói trên:
1.Đô Đốc Hùng Tượng Ré
2.Đô Đốc Hùng Tượng Bích
3.Đô Đốc Hùng Tượng Nhĩ
4.Đô Đốc Hùng Tượng Bôn
Công trình kiến trúc quan trọng nhất trong khu vực này là Miếu Long Châu. Cũng như các công trình kiến trúc cung đình khác, miếu Long Châu được xây dựng theo kiểu nhà truyền thống trùng thiềm điệp ốc. Nhà chính gồm năm gian hai chái, mái lợp ngói liệt. Bên trong trang trí bằng hệ thống liên ba bằng gỗ với 104 ô hộc trình bày đơn giản hơn nhiều so với những cung điện khác, chủ yếu là chữ Thọ theo lối triện và hoa lá chim muông. Treo chính giữa ngôi miếu là một bức hoành phi khắc nổi ba chữ Hán màu vàng rất sắc sảo “Long Châu Miếu”. Bức hoành phi này được làm lại mới vào năm Khải Định thứ 2 (1917). Theo tư liệu của những nhà nghiên cứu trước, phần hậu điện của ngôi miếu có thờ 15 vị thần hộ vệ và tất cả đều thờ bằng bài vị. Hiện nay, trong miếu chỉ còn lại bài vị của 4 vị thần là: thần Thiên Sư, thần Chúa Động, thần Hồng Nương, thần Tiền Hậu Khai Khẩn. Mỗi bài vị được đặt trong một cái khám giống như một chiếc ngai cách điệu trông rất uy nghiêm. Nguyên thủy, còn có bài vị của các vị thần trong tín ngưỡng dân gian như các thần Hà Bá, Thổ Công, Ngũ Hành, Thủy Long Ngọc Nữ...
Ngoài ra, trước đây ở hai miếu hai bên phía trước còn có bốn bài vị khác đề tên tước hiệu được phong của bốn con voi lập nhiều công trạng nói trên:
1.Đô Đốc Hùng Tượng Ré
2.Đô Đốc Hùng Tượng Bích
3.Đô Đốc Hùng Tượng Nhĩ
4.Đô Đốc Hùng Tượng Bôn
   
 Điện Voi Ré không phải nổi tiếng bởi quy mô lớn rộng hay kiến trúc đa 
dạng phong phú, mà nó được tôn vinh và đưa vào quần thể di tích cố đô 
Huế nằm trong Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới vì nó thể hiện được tính 
nhân văn độc đáo của con người Việt Nam. Cha ông ta thường nuôi voi để 
chuyên chở vật nặng, đặc biệt là kéo gỗ ở rừng sâu. Ngoài ra, voi còn là
 con vật được trang hoàng uy nghi nhất trong những ngày hội lớn, là 
chiến xa thông minh khi ra trận, là vũ khí mãnh liệt chà nát quân thù và
 là một người bạn chiến đấu giàu đức hy sinh vì đồng đội.
Đặc biệt, đối với các vua nhà Nguyễn voi được xem như một biểu tượng cho uy lực của hoàng quyền bất khả chiến bại. Với quan điểm này, khi tổ chức những cuộc đấu giữa voi và hổ, bằng mọi cách người ta phải dành chiến thắng về phía voi. Vì vậy, thực chất những cuộc đấu giữa voi và hổ là những buổi voi tàn sát hổ với hai mục đích chính: thứ nhất, bày tỏ chính kiến của người tổ chức tối cao là thiện tất phải thắng ác; thứ hai, người ta muốn rèn luyện cho voi quen với không khí của chiến trận. Vua Nguyễn cho xây dựng Hổ Quyền cạnh điện Voi Ré, có lẽ cũng ngụ ý xem hổ như những con vật tế thần, và Hổ Quyền thực chất là Sở Tể sinh (nơi giết súc vật để cúng tế) của những con hổ xấu xố mà thôi.
Sau khi điện Voi Ré xây xong, triều đình đã ban cấp thêm nhiều tiền bạc để tổ chức tế lễ hai lần trong mỗi năm (vào mùa xuân và mùa thu). Những con voi trung nghĩa đã được suy tôn ngang hàng với thần linh. Đồng thời, ưu ái hơn nữa, người ta còn thờ thêm những vị thần khác ở đó để cầu mong bảo vệ cho những con voi nhiều chiến tích. Đây là một vấn đề thể hiện tính nhân bản trong cách đối xử với những con vật nô bộc trung thành, quả cảm. Sử ghi, năm 1825, vua Minh Mạng xét thấy các vị thần đều có công trong việc bảo vệ voi nên đã sắc phong cho điện Voi Ré và ban thêm cho các vị thần danh hiệu Trợ Oai Tượng Võ Linh Ứng Hộ Tượng chi thần. Có lẽ, ai ai cũng phải thừa nhận, công trình độc đáo này không những chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang đậm ý nghĩa giáo dục, và trên hết là đề cao tinh thần trọng tình trọng nghĩa của dân tộc Việt Nam hào hùng khí phách, có thủy có chung.
Đặc biệt, đối với các vua nhà Nguyễn voi được xem như một biểu tượng cho uy lực của hoàng quyền bất khả chiến bại. Với quan điểm này, khi tổ chức những cuộc đấu giữa voi và hổ, bằng mọi cách người ta phải dành chiến thắng về phía voi. Vì vậy, thực chất những cuộc đấu giữa voi và hổ là những buổi voi tàn sát hổ với hai mục đích chính: thứ nhất, bày tỏ chính kiến của người tổ chức tối cao là thiện tất phải thắng ác; thứ hai, người ta muốn rèn luyện cho voi quen với không khí của chiến trận. Vua Nguyễn cho xây dựng Hổ Quyền cạnh điện Voi Ré, có lẽ cũng ngụ ý xem hổ như những con vật tế thần, và Hổ Quyền thực chất là Sở Tể sinh (nơi giết súc vật để cúng tế) của những con hổ xấu xố mà thôi.
Sau khi điện Voi Ré xây xong, triều đình đã ban cấp thêm nhiều tiền bạc để tổ chức tế lễ hai lần trong mỗi năm (vào mùa xuân và mùa thu). Những con voi trung nghĩa đã được suy tôn ngang hàng với thần linh. Đồng thời, ưu ái hơn nữa, người ta còn thờ thêm những vị thần khác ở đó để cầu mong bảo vệ cho những con voi nhiều chiến tích. Đây là một vấn đề thể hiện tính nhân bản trong cách đối xử với những con vật nô bộc trung thành, quả cảm. Sử ghi, năm 1825, vua Minh Mạng xét thấy các vị thần đều có công trong việc bảo vệ voi nên đã sắc phong cho điện Voi Ré và ban thêm cho các vị thần danh hiệu Trợ Oai Tượng Võ Linh Ứng Hộ Tượng chi thần. Có lẽ, ai ai cũng phải thừa nhận, công trình độc đáo này không những chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn mang đậm ý nghĩa giáo dục, và trên hết là đề cao tinh thần trọng tình trọng nghĩa của dân tộc Việt Nam hào hùng khí phách, có thủy có chung.
Miếu Long Châu tại điện Voi Ré
(Theo Phạm Đức Thành Dũng - http://www.hueworldheritage.org.vn)
Điện Hòn Chén

  Huế xưa và nay - Điện
 Hòn Chén được xây dựng trên núi Ngọc Trản thuộc lòng Hải Cát. Ngọc Trản
 là một ngọn núi cheo leo bên bờ vực thẳm – chỗ sâu nhất của dòng sông 
Hương. Sườn núi cây cối mọc um tùm. Trên đỉnh có một chỗ trũng xuống, 
đường kính vài mét, nước mưa thường đọng lại, trông giống cái chén đựng 
nước trong. Vì vậy, từ xưa núi được đặt tên là Ngọc Trản sơn (núi Chén 
Ngọc), dân gọi là Hòn Chén.
  
 Từ xưa, người Chàm đã dựng đền để thờ nữ thần Po Nagar, về sau, người 
Việt theo Thiên Tiên Thánh giáo tiếp tục thờ bà dưới danh xưng thánh Mẫu
 Thiên Y A Na. Thiên Tiên Thánh giáo là một tôn giáo bình dân địa 
phương, mang tính huyền thoại, được truyền miệng từ đời này qua đời 
khác, lịch sử rất mơ hồ. Từ năm 1854, Liễu Hạnh Công Chúa, tức Vân Hương
 Thánh Mẫu, có nguồn gốc từ ngoài Bắc cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài
 ra, tại điện Hòn Chén còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị 
thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua 
Đồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy.
Ngoại thất điện Hòn Chén
  
 Dưới triều các vua Nguyễn, thời Gia Long, Minh Mạng đều nhiều lần cho 
tu sửa, mở mang ngôi đền. Từ năm 1883 đến 1885, trong giai đoạn mong chơ
 được kế vị. Đồng Khánh đã từng nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền 
Ngọc Trản cầu đảo và xin Thánh Mẫu Thiên Y A Na chỉ dẫn… Khi lên ngôi, 
vua Đồng Khánh liền cho xây lại đền này khang trang, làm thêm nhiều đồ 
tự khí để thờ và đổi tên ngôi đền là Huệ Nam điện (ban ân Huệ cho nước 
Nam, vua Nam). Vua Đồng Khánh đưa cuộc lễ hàng năm ở đây vào hàng quốc 
lễ và tự nhận mình là đồ đệ của Thánh Mẫu… Nay trong điện vẫn còn thờ 
một vài bức tranh ảnh của chính nhà vua. Điện Hòn Chén ngày nay được 
nhiều  người biết đến không phải vì nó là một di tích tôn giáo mà chủ 
yếu vì phong cảnh nơi đây. Công trình kiến trúc tôn giáo này được người 
xưa đặt trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, sơn thủy hữu tình.Điện 
Hòn Chén có khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn đều nằm ở lưng chừng
 sườn Đông Nam thoai thoải của ngọn núi, ẩn mình dưới những gốc cổ thụ, 
tỏa bóng mát quanh năm. Những hệ thống bậc chạy từ cao xuông tận bến 
nước. Mặt nước trong xanh phẳng lặng như gương in bóng cổ đền. Du thuyền
 cập bến ngước nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào chốn thần 
tiên.
Dâng hương mùa lễ hội tại  điện Hòn Chén
  
 Mặt bằng kiến trúc của ngôi đền không rộng. Điện thờ chính là Minh Kính
 Đài nằm ở giữa, mặt hương ra sông. Điện được xây dựng năm 1886 dưới 
thời vua Đồng Khánh có mặt bằng 15m x 17m, được chia làm ba cung từ cao 
xuống thấp, từ sau đến trước căn cứ vào chức năng thờ phụng:
- Thương cung hay Thượng điện chia làm hai tầng: tầng trên thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thánh Mẫu Vân Hương, ảnh vua Đồng Khánh và một thánh khác, tầng dưới dùng là chỗ tiếp khách và nơi ở của thủ từ.
- Cung Hội Đồng thờ hàng chục tượng thần khác, có cả tượng Phật và dùng làm nơi thiết trí các đồ cúng dùng để rước sắc trong các dịp lễ lớn.
- Tiền điện có xây một hương án lớn, hai bên có trống chuông, là chỗ cử hành tế lễ… Trên bờ nóc, bờ quyết của Minh Kính Đài cũng như các công trình kiến trúc khác ở xung quanh, được trang trí chủ yếu hình ảnh con phụng – tượng trưng cho phụ nữ, ở đây là các nữ thần.
Điện Hòn Chén nhìn từ sông Hương
  
 Bên phải Minh Kính Đài là nhà quan Cư Trinh Cát viện, chùa Thánh, bên 
trái là dinh ngũ vị thánh bà, bàn thờ các quan, động thờ ông Hạ Ban (từ 
ông Hổ: con cọp), am ngoại cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am
 Thủy Phủ, ngoài ra còn có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác… 
Điện Hòn Chén thật xứng đáng được liệt vào danh thắng của đất cố đô.
Theo Lê Văn Phúc (Huế - Di tích lịch sử - Văn hóa - Danh thắng)
 












 
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét